The Great Escape

Chương 4: The Great Escape Chương 4-1


Căn nhà nhỏ họ thuê nằm bên một nhánh bờ hồ Caddo rộng lớn. Hai chiếc điều hòa cũ kỹ nhô ra từ bên hông nhà với những mảng sơn tường phai màu mù tạt, và một thảm cỏ nhân tạo phủ kín thềm nhà. Họ ngủ ở một nhà nghỉ gần Nacogdoches đêm qua, nơi mà Panda đã hoàn toàn phớt lờ cô. Sớm hôm nay, họ khởi hành về phía bắc hướng cái hồ, nằm ngay giữa bang Texas và bang Louisiana và, theo cuốn sách chỉ dẫn mà cô đã mua khi họ dừng lại ở trạm xăng thì đây là hồ nước ngọt lớn nhất miền Nam – và chắc chắn là ma mị nhất với những đầm lầy nguyên sơ nước đục ngầu.

Căn nhà tồi tàn nhưng sạch sẽ, với một phòng khách nhỏ, hai phòng ngủ thậm chí còn nhỏ hơn thế và một căn bếp kiểu cũ. Lucy chọn phòng ngủ với chiếc giường đôi. Mảng giấy dán tường sọc caro cam cong cong ở các góc và đụng màu chan chát với tấm chăn và ga trải giường rẻ tiền họa tiết hoa lá màu xanh và tím, nhưng cô hoàn toàn hài lòng với việc có một bức tường ngăn giữa giường của cô và của Panda.

Cô thay đồ thoải mái hơn và đi vào bếp. Có một chiếc tủ lạnh, một chiếc bàn bếp đã hỏng và nền nhà phủ một lớp nhựa tổng hợp xám. Qua lớp kính cửa sổ phía trên bồn rửa, có thể nhìn thấy một nhánh sông, và cách chiếc cửa 1 chút sẽ dẫn ra một khoảng thềm lát gỗ với chiếc bàn vuông, vài chiếc ghế tựa có tay vịn, một cái lò nướng ngoài trời và vài chiếc cần câu.

Cô thấy Panda đang nhìn về phía mấy cây cọ mọc đầy bên bờ sông, anh dựa chân vào hàng rào của phần thềm lát gỗ với một lon Coke trong tay. Ít nhất thì anh không ngồi chổm hỗm ở đó với một túi vài lon bia nữa. Anh không thèm quan tâm khi cô kiểm tra chiếc lò nướng và lướt qua chỗ mấy chiếc cần câu. Sự im lặng của anh khiến cô bức bối. “Ngoài này nóng thật đấy.” Cuối cùng cô lên tiếng.

Anh hớp một ngụm Coke và vẫn hoàn toàn không quan tâm tới việc đáp lại cô. Cô rời ánh mắt khỏi chiếc áo phông khó ưa mà cô đã cố gắng giả vờ không chú ý tới nó cả ngày nay. Những lúc Panda lựa chọn mặc đồ trang nhã, nam tính một chút thì chẳng kéo dài nổi quá một khoảnh khắc. Cô chợt cảm thấy thật là không nên khi dằn vặt mình vì đã bỏ lỡ Ted, một chú rể quá đỗi ngọt ngào, tinh tế và cực kỳ điềm đạm.

“Bóng mát từ chiếc ô lớn quả là dễ chịu,” Cô nói.

Vẫn không có gì ngoài im lặng.

Cô đẩy tầm mắt ra xa hơn nơi những chiếc du thuyền đang đỗ, cắt ngang những cây bách trơ trụi bám đầy Spanish moss. “Nếu là một người chơi xe, tôi sẽ có một cái tên hay hơn là Panda.” Như kiểu Viper.

Anh bóp bẹp dí lon Coke và bước về phía sân, rồi quăng chiếc lọn nhăn nhúm vào một túi nilong đen đựng rác anh thấy bên đường. Nhân lúc anh tiến về phía cái hồ, cô ngồi thụp xuống chiếc ghế anh vừa bỏ ngỏ. Ted là một người tuyệt vời để trò chuyện và là người thích hợp nhất để được lắng nghe mà cô từng biết.

Anh vờ như thích thú với bất cứ thứ gì cô nói. Tất nhiên là anh làm như thế với tất cả mọi người, kể cả những kẻ ngớ ngẩn nhất nhưng mà... Cô chưa bao giờ thấy anh tỏ ra thiếu kiên nhẫn hay gắt gỏng với bất kỳ ai – cũng chưa hề nghe thấy bất cứ từ ngữ khiếm nhã nào thốt ra từ anh. Anh tốt bụng, kiên nhân, khoan dung, thấu hiểu và cô vẫn chưa hoàn toàn dứt được những suy nghĩ về anh. Cô là cái loại gì vậy?

Cô dùng chân kéo một chiếc ghế lại gần hơn rồi gác lên đó, cảm thấy thư thái hơn đôi chút. Panda đã tới chỗ neo tàu.

Một chiếc thuyền con lật úp nằm ở ven bờ và một con chim ưng đang bay lượn lờ trên mặt nước. Anh không hề nói rằng anh định thuê ngôi nhà này trong bao lâu, cô chỉ biết điều duy nhất là mình được anh khuyến khích rời đi bất cứ lúc nào, càng sớm càng tốt. Nhưng anh thật sự mong như vậy ư? Càng ngày cô càng nhận thấy rằng anh khôn khéo hơn những thứ anh thể hiện ra bên ngoài, và cô không thể nào ngó lơ được cái cảm giác lo sợ ngay ngáy trong lòng khi nghĩ rằng anh đang bán tin cho mấy tờ báo lá cải. Điều gì sẽ xảy ra nếu anh nghĩ tới việc có thể kiếm được nhiều hơn rất nhiều số tiền 1000 đô cô đưa khi bán câu chuyện của cô?

Cô đưa mắt theo về phía mặt nước nơi anh dừng lại bên cạnh chiếc thuyền con. Cô dậm dậm chân xuống đất. Anh không hề liếc mắt qua. Cô ước gì mình đã có thể chọn được một người bạn đồng hành khác, người không thích sự im lặng nặng nề giữa họ và không khoái mấy miếng dán với khẩu hiệu ghê tởm.

Nhưng nếu thế thì cô còn muốn ước nhiều nhiều thứ hơn nữa. Rằng cô đã chọn một người chồng sắp cưới nào đó khác để bỏ rơi, người mà đã làm gì đó – bất cứ thứ gì – để đáng bị bỏ rơi ngay trước lễ cưới như vậy. Nhưng Ted thì không hề, phần xấu xa nào đó trong cô đã căm ghét anh bởi anh quá tốt so với một người như cô.

Cô không thể kéo dài những suy nghĩ tưởng tượng của mình hơn được nữa. “Tôi muốn câu cá,” cô nói. “Tôi hầu như thả hết chúng đi khi bắt được. Ngoại trừ cái lúc tôi tới Outward Bound (Một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế với những hoạt động sinh hoạt, giáo dục ngoài trời, các kỹ năng...). Tôi đã giữ vài con cá vì ––”

“Không quan tâm.” Anh xoáy thẳng vào cô với một cái nhìn dài – không phải như cái cách anh nhìn như muốn lột sạch đồ trên người cô; Anh đã không còn nhìn như thế nữa – mà là cái nhìn khiến cô cảm thấy anh nhìn thấu mọi ngóc ngách trong cô, cả những nơi cô không hề ý thức nó có tồn tại. “Gọi cho Ted và nói với anh ta cô rất xin lỗi. Gọi cho cả người thân của cô nữa. Đã 3 ngày rồi. Cô đã có chuyến phiêu lưu cho mình. Và tới lúc cô tiểu thư phải trở về nhà rồi.”

“Tôi đã nghe quá đủ mấy thứ vở vẩn về tiểu thư này nọ này rồi.”

“Tôi chỉ gọi đúng như những gì tôi thấy.”

“Là như những gì anh muốn thấy thì đúng hơn.”

Anh nhìn cô trong một khoảng dài khó chịu rồi hất cằm về phía chiếc thuyền. “Giúp tôi cho cái thứ này xuống nước.”

Họ cùng nhau lật chiếc thuyền lại rồi đẩy nó xuống hồ. Cô túm lấy một chiếc mái chèo và không đợi bất cứ lời mời nào, cô leo lên ngồi. Cô hy vọng anh sẽ mặc kệ cô và bỏ đi nhưng anh với lấy một chiếc mái chèo khác rồi ngồi lên thuyền, cái khoảnh khắc con thuyền chập rãi bắt đầu di chuyển thật duyên dáng.

Vài giờ tiếp sau đó, họ lênh đênh trên mặt nước, rẽ làm đôi những đám bèo tây mọc kín mặt nước. Họ chèo từ một nhánh sông nhỏ sang một nhánh khác, qua những khu rừng cây bách kỳ quái phủ đầy những tấm màn cây Spanish moss, anh hầu như chẳng nói câu nào. Cô liếc nhìn anh ở sau. Khi chèo, cơ bắp anh duỗi ra làm phần ngực chiếc áo phông trắng căng lên, nổi rõ dòng chữ màu đen in phía trên.

Chiếc áo này không phải một trong những cái anh mua trước đó nhưng chắc hẳn nó đã được giấu trong thùng xe của anh khi họ rời Wynette. Giá mà nó cứ mãi mãi ở nguyên chỗ đó. “Mấy miếng dán với khẩu hiệu đó đã đủ tệ lắm rồi,” cô nói, “nhưng ít nhất là một người phải tới gần xe của anh thì mới thấy chúng được.” Anh theo dõi một con cá sấu nằm sưởi nắng phía bên bờ cách xa chỗ bọn họ. “Tôi đã nói với cô về mấy cái miếng dán đó.” Cô quay lại vị trí của mình, để cái mái chèo nằm ngang đầu gối và để anh lái một mình. “Anh nói rằng người chủ cũ của chiếc xe đã dán chúng. Vậy tại sao anh không để tôi bóc hết chúng đi?” Anh chuyển mái chèo qua lại 2 bên. “Tôi thích chúng.”

Cô cau mày nhìn dòng chữ trên áo anh: NÓ CHỈ CÓ VẺ KỲ QUÁI KHI CHÚNG TA LÀM LẦN ĐẦU THÔI. (Câu thường được dùng khi nói về những cách, tư thế sex có hơi hướng bạo lực.)

“Đây là một món quà,” anh nói

“Đến từ địa ngục?”

Một thứ gì đó gần như là một nụ cười thoáng qua trên môi anh rồi biến mất. “Cô không thích nó và cô biết là có thích hay không thì cũng chẳng thay đổi điều gì.” Anh quẹt ngang một mớ bèo tây lớn khác.

“Sẽ ra sao nếu một đứa trẻ thấy chiếc áo này chứ?”

“Cô đã thấy đứa trẻ nào hôm nay chưa?” Anh hơi nhích người điều chỉnh vị trí ngồi. “Cô làm tôi cảm thấy tiếc khi chưa kể về chiếc áo với câu ưa thích nhất của tôi đấy.” Cô quay lại đầu hàng. “Tôi không muốn nghe chúng.”

“Câu đó là, ‘Tôi hoàn toàn đồng ý hôn nhân đồng tính miễn là hai cô nàng đều phải thật bốc.’ ”

Máu nóng dồn lên đầu, chiếc thuyền lắc mạnh khi cô quay người lại. “Việc tôn trọng mà ở đây là người đồng tính có vẻ như là một câu chuyện hài đối với anh nhưng với tôi thì không. Cứ tùy ý gọi tôi là cổ hủ hay thế nào cũng được nhưng tôi vẫn tin rằng giá trị thực chất nằm ở việc tôn trọng bản chất của mỗi con người.” Anh nhấc mái chèo lên khỏi mặt nước đục ngầu. “Chết tiệt, tôi tiếc vì mình đã không mua cái áo kia vài tuần trước.”

“Quả là một thiếu sót vô cùng, tôi chắc chắn với anh.”

“Muốn biết có gì trên chiếc áo đó không?”

“Không hề.”

“Nó viết...” – anh học cách như cô, nói chậm từng chữ một hết sức rõ ràng – “Nếu tôi có thể bắn cô khi tôi muốn, tôi sẽ làm nó ngay bây giờ.”

Đã quá nhiều cho việc đối thoại rồi.

Khi họ trở về nhà, cô tự chiêu đãi mình chiếc bánh kẹp từ cửa hàng lúc nãy họ có ghé qua, mượn một cuốn sách cũ ai đó đã để lại và nhốt mình trong phòng ngủ. Cô độc quấn quanh cô như một chiếc áo khoác nặng trịch. Ted đã dừng không tìm cô nữa rồi sao?

Hình như là chưa, liệu rằng có phải anh đã không cố ngăn cô rời khỏi nhà thờ hôm đó. Còn bố mẹ cô thì sao?

Cô đã gọi cho Meg 2 lần bằng điện thoại của Panda, nên sẽ chẳng có gì khó để Secret Service tìm ra vị trí của cô.

Sẽ ra sao nếu Mat và Nealy đã bỏ cô rồi? Cô tự nói với bản thân mình rằng sẽ không có chuyện đó đâu.

Kể cả khi không căm ghét cô thì chắc là họ cũng không muốn thấy cô trong một khoảng thời gian.

Cô không thể đổ lỗi cho bố mẹ được.

CÓ THỨ GÌ ĐÓ CỰC KỲ KỲ QUÁI xảy ra những ngày tiếp sau đó. Panda cư xử như vừa nhảy qua một bước vọt cực lớn. Đầu tiên là khi cô nhận ra sự thiếu của những tiếng ợ hơi, tiếng xì xụp khi ăn và mất luôn cả tiếng răng anh nghiến vào nhau ken két. Chỉ tới khi cô thấy anh cắt miếng thịt gà gọn gàng, bỏ lại xương và cẩn thận nhai miếng đầu tiên trước khi anh hỏi cô lấy hộ chai hạt tiêu, lúc đó cô gần như trở nên lo lắng. Chuyện gì đã xảy ra với nhai-không-ngậm-miếng và sử dụng mu bàn tay thay cho khăn lau? Liệu có phải là những ám chỉ cho việc cưỡng bức cô... Anh có vẻ như đang công khai mình coi cô như là một người phụ nữ.

Họ tới thị trấn Marshal để mua sắm dụng cụ cần thiết và nhu yếu phẩm. Cô mua kính râm, vẫn chú ý kéo mũ thật thấp, với chiếc bụng bầu cô càng ngày càng căm ghét, cộng thêm Panda ở bên cạnh, chẳng ai chú ý tới cô.

Anh loay hoay với chiếc xe, tháo rời ra rồi lắp trở lại. Để ngực trần và với một chiếc khăn bandanna họa tiết màu xanh quấn trước trán, anh tra dầu và đánh bong, kiểm tra mức xăng và lắp mới lại hệ thống phanh. Anh đặt một chiếc đài cạnh cửa sổ mở lớn và nghe nhạc hiphop, ngoại trừ một lần khi cô ra ngoài và đã nghe được một bản trích trong vở opera Cây sáo thần của Mozart. Khi cô hỏi anh về nó anh đã đổ lỗi cho cô về việc táy máy với chiếc đài của anh và bắt cô chuyển kênh khác. Thỉnh thoảng cô bắt gặp anh nói chuyện điện thoại với một ai đó nhưng anh chẳng bao giờ để điện thoại xa mình một chút nên cô không có lấy một cơ hội kiểm tra nhật ký cuộc gọi của anh.

Buổi tối, khi cô nhốt mình trong phòng ngủ thì anh ngồi ngoài phòng khách, xem đấu bóng chày trên truyền hình, nhưng thường xuyên hơn cả là khi anh ngồi ngoài thềm gỗ, chăm chăm nhìn về phía dòng nước.
Tình trạng đóng băng giữa 2 người từ những ngày đầu tiên bắt đầu trở nên khá hơn và cô phát hiện ra rằng mình đang theo dõi anh.

Panda mang mùi hương từ cả nhánh sông thu vào lòng.

Anh đã có quá nhiều thời gian để suy nghĩ – quá nhiều ký ức còn đó – và mỗi ngày sự oán giận lại đào sâu hơn trong anh.

Anh không hy vọng rằng cô có thể chịu đựng nổi và rồi bỏ cuộc sau vài giờ, nhưng cô vẫn đang ở đây, bảy ngày sau khi anh cho cô đi nhờ hôm đó.

Tại sao cô không làm những gì đáng nhẽ ra cô nên như thế? Quay trở lại Wynette hoặc trở về nhà ở Virginia. Anh không quan tâm xem cô nên tới cái nơi chết tiệt nào, chỉ cần cô đi thôi.

Anh không tài nào hiểu nổi cô. Cô nhìn thấu anh – cái vụ giả vờ bị khuấy động rồi leo lên giường cô anh dựng lên đêm thứ 2 họ ở cùng nhau, và cô giả vờ như mình không hề nghe được một từ nào từ những lời lăng mạ anh ném về phía cô. Cô tự chủ và có chính kiến. Những gì cô làm trong ngày diễn ra lễ cưới của mình dường như không phải là cô. Còn bây giờ... Bên dưới cái cách cư xử nhã nhặn đó, anh nhận ra thoáng ẩn hiện của thứ gì đó ––

Ai đó – khác, phức tạp hơn. Cô láu cá, nhạy cảm tới phát cáu đi được và bướng như quỷ. Cái bóng từ quá khứ không bám riết lấy cô như cách chúng làm với anh vậy. Anh dám cá rằng cô chưa một lần gào thét bật dậy thoát khỏi cơn ác mộng. Hay cũng chưa một lần uống say cho tới khi ngất đi. Và khi cô vẫn còn là một đứa trẻ... Khi còn là một đứa trẻ, cô chắc đã có thể làm những thứ mà anh không.

Năm trăm đô. Đó là tất cả những gì đứa em bé bỏng của anh có.

Qua tiếng rên la của những sinh vật vùng đầm lầy kia, anh nghe thấy tiếng đứa em trai 8 tuổi của mình khi họ đi dọc qua những viên gạch vỡ ngang dọc trên vỉa hè tới một ngôi nhà khác nơi nhận nuôi họ, người hoạt động xã hội phụ trách họ đang đi phía trước, bước từng bước lên bậc thềm cọt kẹt. “Nếu em tè dầm ra giường thì sao ạ?” Curtis thì thầm khẽ.

“Điều đó sẽ là lý do để ngôi nhà cuối cùng này quyết định đá chúng ta đi.” Panda giấu nỗi sợ hãi của mình dưới vẻ huênh hoang của một đứa trẻ 15 tuổi. “Đừng lo, ngốc ạ.” Anh giả vờ đấm đấm vào cánh tay gầy gò khẳng khiu của Curtis. “Anh sẽ tỉnh dậy lúc nửa đêm và đưa em đi vệ sinh.” Nhưng sẽ ra sao nếu anh lại không dậy được như tuần trước thì sao?

Anh tự hứa với bản thân là sẽ không ngủ cho tới khi đưa Curtis đi tè, nhưng anh đã gật gật gù gù rồi ngủ mất và ngày hôm sau bà Gilbert đã yêu cầu bên Bảo trợ xã hội phải tìm một nơi ở khác cho Curtis.

Panda sẽ không để bất cứ thứ gì chia cắt anh và đứa em trai nhỏ của mình nên anh nói với người bên Bảo trợ xã hội rằng anh sẽ chạy trốn nếu họ cố tách 2 người. Cô đó chắc hẳn đã tin lời anh nói nên một gia đình khác đã được tìm cho họ. Nhưng cô ấy cũng cảnh báo anh rằng sẽ không có thêm bất kỳ một gia đình nào nữa đồng ý nhận cả hai anh em.

“Em sợ,” Curtis thì thầm khi họ bước tới cánh cổng. “Anh có sợ không?”

“Anh chẳng bao giờ sợ hãi,” anh nói dối. “Chẳng có gì phải sợ hết.” Và anh đã hoàn toàn sai lầm.

Panda nhìn dòng nước đen xì. Lucy đã 14 tuổi khi mẹ mất. Nếu anh và Curtis cũng được gặp một gia đình như Mat và Nealy Jorik, em trai anh hẳn sẽ còn sống. Lucy đã được hưởng trọn vẹn nhưng gì anh chưa bao giờ có thể ––

Cô giữ cho đứa em của mình an toàn – và giờ Curtis của anh nằm dưới nấm mồ trong khi em gái Lucy được bảo vệ và chuẩn bị cho năm đầu tiên tại đại học của mình.

Curtis bị một tên lang thang đâm chết khi thằng bé mới chỉ lên 10, Panda đã có thể ngăn chuyện đó xảy ra nếu anh không bị nhốt trong trại cải tạo. Họ để anh ra ngoài chỉ ngắn đủ để anh tới dự lễ tang của em trai.

Anh khó nhọc chớp mắt. Những kí ức về Curtis luôn móc nối với nhiều nhiều kí ức khác nữa. Sẽ nhẹ nhõm hơn nếu anh có âm nhạc làm xao nhãng đầu óc, nhưng anh không thể nghe Otello, Boris Godunov, hay cả tá những bản opera khác khi Lucy vẫn quanh quẩn quanh đây. Khi bất cứ ai vẫn còn quanh quẩn quanh anh.

Anh hy vọng cô ra ngoài và nói chuyện cùng anh. Anh muốn giữ cô ở gần, cũng muốn cô tránh xa anh ra. Anh muốn cô đi, muốn cô ở lại, muốn lột sạch đồ của cô – Anh chẳng thể khống chế được mình không nghĩ về điều đó.

Với cô loanh quanh bên cạnh cả ngày trời là một thử thách đối với bất kỳ người đàn ông nào, đặc biệt là với một người như anh.

Anh chà chà sống mũi, nhét điện thoại vào trong túi quần và đi vòng qua bên hông nhà nơi anh sẽ không bị nghe lén.

PANDA VẪN tiếp tục ép cô chạy vào buổi sáng, dù cô đã hết sức cố gắng chạy phía sau anh, nhưng anh không muốn chạy phía trước.

“Cứ khi nào tôi không nhìn là cô sẽ đi bộ,” anh nói.

Sự thật là thế. Cô đã từng tập đi bộ và có một thẻ tập gym mà cô sử dụng hơi không thường xuyên, nhưng cô không hề muốn trở thành một vận động viên điền kinh. “Từ khi nào mà anh tự cho mình là huấn luyện viên của tôi thế?”

Anh phạt cô bằng cách đẩy nhanh tốc độ hơn. Nhưng cuối cùng thì anh cũng thấy có lỗi và chậm lại.

Sự hối lỗi của cô lớn dần, về việc anh không hoàn toàn là kiểu người tối cổ mà anh thể hiện để muốn cô tin, cùng với đó sự tò mò về anh tăng lên và cô cũng muốn bắt đầu hành trình câu cá của mình.

“Anh đã bàn chuyện với bạn gái của mình kể từ lúc anh rời đi khỏi nơi mà anh rời đi khỏi chưa?”

Lại tiếng càu nhàu.

“Mà rốt cục thì anh ở đâu vậy?”

“Phía bắc.”

“Colorado? Nome?”

“Vậy anh có phải nói với cô ấy về chuyện mình sẽ đi đâu không?”

“Hai người đã kết hôn chưa? Hay li dị rồi?”

“Để ý mấy cái ổ gà, ổ vịt trên đường đi. Cô mà ngã gãy chân cũng chẳng ai quan tâm đâu.”

Cô hít hít không khí nhằm xoa dịu cơn tức giân trong người. “Anh biết mọi chi tiết về cuộc đời tôi. Ít nhất thì cũng để cho tôi biết một chút gì về anh chứ.”

Anh quay đầu lại lần nữa. Không như cô, hơi thở anh chẳng hề khó nhọc. “Tôi chưa bao giờ kết hôn và đó là tất cả những gì cô nên biết.”

“Anh có đang qua lại với cô nào không?”

Anh ngoái lại nhìn cô qua vai – cái kiểu thương hại.

“Cô nghĩ sao?”

“Một bể bơi ngập tràn những cô nàng vật lộn với cá sấu cũng không đủ để anh kiếm được vài cơ hội hẹn hò sao?” Cô nghe thấy âm thanh anh phát ra – nửa đùa cợt nửa mang tính cảnh báo rằng câu hỏi của cô thật sự ngớ ngẩn quá mức rồi – nhưng tất cả những gì cô biết được là anh còn độc thân và ngay cả điều này thôi cũng có thể là anh nói dối. “Lạ thật đấy,” cô nói. “Ngay khi vừa tới đây, tính cách của anh trở nên nhã nhặn hơn hẳn. Chắc có lẽ là do không khí vùng đầm lầy này.” Anh rẽ nước vòng sang một bên. “Câu hỏi ở đây là,” cô nói, “tại sao cả việc khạc nhổ và gãi người rồn rột cũng biến mất – và tôi phải công nhận rằng tôi thực sự rất bất ngờ về nó – nhưng nó trong có vẻ không tự nhiên?”

Cô nghĩ anh sẽ lảng tránh câu hỏi này nhưng không.

“Thì sao nào? Tôi bắt đầu thấy nhàm chán khi tôi nhận ra rằng cô là kiểu người hơi hâm hâm và thường trở nên sợ phải làm những việc mà cô nên làm.”

Không có một ai từng gọi cô là kiểu người hâm nhưng những lời xỉ nhục đó là từ anh nên cô cũng chẳng để tâm lắm. “Anh đang hy vọng tôi nhìn thấy rõ sự đối lập giữa anh và Ted, rồi để tôi nhận ra rằng mình nên bỏ cuộc tại đây và trở về Wynette.”

“Kiểu thế đây. Ted là một người tốt và ai cũng thấy là cậu ta yêu cô. Trong khi tôi đang cố làm thứ gì đó để cậu ta mang ơn tôi. Nhưng tôi đã dừng cái ý nghĩ đó khi nhận ra cậu ta sẽ biết ơn tôi biết bao khi tôi ngăn không để cô quay lại đó.”

Sự thực đó quả là rất đau đớn và họ đã kết thúc chuyến đi của mình trong im lặng.