The Great Escape

Chương 6: The Great Escape Chương 6-2


Cái mùi ẩm mốc của căn nhà bị khóa trái lâu ngày ập vào mũi khi cô bước vào căn bếp có chút lỗi thời. Những chiếc tủ đựng ly được sơn màu xanh chuối nhạt một cách không khôn ngoan. Những chiếc cốc cổ điển có quai cầm và tay cầm mở tủ cùng tông nhàm chán. Một chiếc bàn xấu xí có hình dáng giống những chiếc bàn thời Victoria được đặt chật cứng trong một góc giành để ăn sáng. Trên kệ bếp màu trắng nhiều vết xước có một cái lò vi ba cũ, một chiếc máy xay cà phê mới, một khay đựng dao và một hũ đựng muối bằng sành cùng xẻng nấu ăn và những chiếc thìa nhựa qua bao lần đun nấu đã bị đổi màu. Một con heo bằng sứ ăn mặc như bồi bàn pháp đặt cạnh bồn rửa chén.

Lucy bật đèn và đi xuống tầng dưới. Cô lướt qua phòng khách, phòng tắm nắng, phòng đọc sách cũ kĩ trước khi dừng chân tại phòng ngủ lớn tầng một. Một chiếc giường sọc dọc xanh da trời và trắng cỡ queen-size, một chiếc bàn nhỏ có hình dạng của ống cuốn dây cáp, một tủ gỗ ba ngăn, 2 chiếc ghế không tay vịn, một cặp bức tranh của Andrew Wyeth treo trên tường. Trong tủ đựng quần áo có một chiếc áo khoác, quần jean, giày và một chiếc mũ lưỡi trai của hãng Detroit lions. Nhìn kích cỡ thì đúng là có vẻ chúng đúng là thuộc về Panda, nhưng cũng chưa có bằng chứng nào chính xác rằng cô đã đột nhập vào đúng nhà.

Phòng tắm ở bên cạnh với phần gạch lát tường màu xanh trứng chim robin đã lỗi thời cùng chiếc rèm tắm trong suốt chẳng che đậy nổi cái gì. Cô ngần ngừ rồi mở ngăn tủ đựng thuốc ra. Kem đánh răng, chỉ nha khoa, thuốc giảm đau và dao cạo râu.

Cô quay trở lại nhà bếp và tiến tới xem xét một thứ chẳng vẻ gì là thuộc về căn bếp này, một chiếc máy pha cà phê Đức vô cùng hiện đại, đó có chính xác là thứ mà một vệ sỹ chuyên nghiệp, người có vẻ như rất thích cà phê, sẽ trả một đống tiền để được sở hữu sao?

Thứ cô tìm được trong chiếc tủ lạnh, tuy nhiên, bằng cách nào đó nói với cô rằng mình đã tìm đúng nhà. Trên một ngăn trống không, cô để ý thấy một hũ mứt cam, chính xác cái nhãn hiệu cô thấy Panda đã dùng để phết một lớp dày lên những lát bánh mì cô tự làm.

“Đàn ông thực thụ thì phải ăn mứt nho chứ,” cô lên tiếng khi thấy anh lấy một hũ giống hệt những lần khác anh mua trong một tiệm tạp hóa gần hồ Caddo. “Tôi nghiêm túc đấy, Panda. Nếu anh mua hũ mứt cam đó, anh thực sự phải xem lại mình có là đàn ông hay không.”

“Đây là loại tôi thích. Quyết định thế đi.”

Trong tủ lạnh chỉ có 12 lon Coke. Không có bia. Cô lặn lội lại cả ngàn cây số nghĩ về buổi sáng đầu tiên khi cô thức dậy ở bên hồ và nhìn thấy vỏ trống rỗng của 6 lon bia Panda mua từ tối hôm trước. Cái kiểu vệ sỹ kiểu gì mà uống như vậy trong khi đang làm nhiệm vụ chứ? Nhưng tiếc là cô chỉ nhìn thấy quá trình uống ở đoạn anh nhấp vài ngụm trước khi cô rời đi tới chỗ mấy cái cây và khi anh dốc ngược uống nốt chút còn lại của cái chai khi cô quay lại. Còn 6 lon anh đặt ở trên bàn đêm đầu tiên họ nghỉ tại nhà trọ. Cô thực sự thấy anh uống bao nhiêu trong chỗ đó? Không nhiều hơn vài hớp nhỏ. Cũng như vậy khi họ ở hồ Caddo.

... Anh đã chỉ uống Coke.

Cô liếc mắt về phía cầu thang dẫn lên tần hai nhưng không có chút nào hứng thú muốn tìm hiểu.

Nó hiện tối om và cô vẫn cần phải tìm một chỗ để nghỉ qua đêm. Nhưng cô không muốn đi bất cứ đâu hết. Cô muốn ngủ ngay tại đây, trong căn nhà to lớn có chút ma quỷ với kí ức nó lưu lại về những mùa hè đã qua.

Cô quay lại phòng ngủ ở tầng 1. Một tấm rèm chắn nắng xấu xí che lấy cánh cửa trượt dẫn ra phần thềm mở bên ngoài và một cái cán chổi ngắn tủn đặt trên thanh trượt của cánh cửa là vật duy nhất có thể dùng nếu cần tự vệ. Sau khi khám phá thêm một lúc, cô tìm thấy một chồng những chiếc quần lót nam giống với kiểu anh mua trong những lần họ cùng ghé vào mua sắm dọc chuyến đi, cạnh đó là vài chiếc quần thụng mặc đi bơi. Cô quay lại xe lấy một số vật dụng rồi khóa cánh cửa dẫn ra thềm ngoài lại để phòng những kẻ xấu đột nhập rồi yên vị trong phòng ngủ.

Vài tiếng cọt kẹt không rõ từ đâu ra khiến giấc ngủ cô chập chờn suốt cả đêm, và cho tới khoảng gần sáng hôm sau, cơn ác mộng về việc cô chạy khắp nơi trong căn nhà tìm lối ra nhưng không thể khiến cô tỉnh giấc.

Căn phòng hơi lạnh nhưng chiếc áo phông lại thấm mồ hôi dán vào lưng cô.

Những tia nắng buổi sớm xuyên qua khe chiếc rèm chống nắng. Cô vươn vai, duỗi người rồi bất chợt giật nảy mình vì cô nghe thấy tiếng mở khóa.

Một cậu bé đi vào qua cánh cửa đêm qua cô đã khóa chặt trước khi đi ngủ. “Ra ngoài,” cô há hốc miệng nói.

Cậu nhóc đó nhìn cô cực kỳ ngỡ ngàng sửng sốt y như cách cô nhìn cậu vậy, nhưng cậu ta nhanh chóng quay lại trạng thái bình thường. Mắt cậu khép lại thành cái nhìn trừng trừng giận giữ bắn về phía cô, cứ như cô là một kẻ đột nhập nhà trái phép.

Cô nuốt khan. Ngồi dậy. Sẽ ra sao nếu tất cả là tại cô đã vào nhầm nhà?

Cậu ta mặc một chiếc quần thể thao thụng màu xám trông không-quá-sạch-sẽ, chiếc áo phông màu vàng tươi in hình cây đàn ghita điện và mang đôi giày đế mềm mòn vẹt mà không đi tất. Cậu nhóc là người Mỹ gốc Phi, da cậu có chút sáng hơn cậu em Andre của cô một chút. Nhỏ con và gầy gò – có lẽ khoảng 10 – 11 tuổi – cậu có mái tóc ngắn với những lọn xoăn nhỏ xíu, đầu gối dơ xương, cánh tay khẳng khiu và cái biểu cảm chống đối cậu thể hiện ra như thể muốn tuyên bố sự khó chịu của mình tới cả thế giới. Chúng có thể hiệu quả nếu sự phản kháng của cậu không đối lập bởi đôi mắt đặc biệt khác lạ với bờ mi dày, dài và đôi mắt màu nâu ánh vàng.

“Cô không được phép ở đây,” cậu nhóc nói và hất cằm.

Cô nói bừa. “Panda nói cô có thể ở lại.”

“Ba không nói bất cứ thứ gì với Gram về điều đó cả.” Vậy là cô vào đúng nhà rồi. Dù não cô đã trở lại bình thường sau cú shock khi cậu nhóc xuất hiện nhưng phần còn lại thì vẫn đang ngừng hoạt động. “Anh ấy không có nhắc đến cháu,” cô nói. “Cháu là ai?”

Dù hỏi như vậy nhưng cô cũng lờ mờ biết câu trả lời. Đây là con của Panda. Và cô vợ người Mỹ gốc Phi xinh đẹp đang mang bầu của Panda hẳn đang ở trong bếp ngay lúc này, bắt đầu dọn dẹp nhà cửa cho chuyến du lịch hè hàng năm của gia đình, trong khi mẹ chồng cô chất đầy chiếc tủ lạnh bằng những món đồ họ mua trên đường tới đây. Tất cả những thứ đó có nghĩa là Lucy, người đã nhận được hai chứng chỉ công dân gương mẫu ở trường cấp ba và là chủ tịch hội học sinh ở trường đại học, là một cô bồ nhí.

“Cháu là Toby.” Cậu nói rõng rạc tên mình. “Cô là ai?”

Cô phải xác nhận lại. “Cháu là con trai Panda sao?”

“Vâng, đúng vậy. Cô không rõ lắm về ba phải không? Chắc cô cũng như mấy kẻ phê thuốc tới từ đất liền, và cô phá cửa vào đây vì sợ ngủ ngoài bãi biển hả.” Sự khinh miệt của cậu nhóc giảm bớt. “Cô không phê thuốc,” cô đáp lại. “Tên cô... Là Viper.” Từng từ vuột khỏi bờ môi cô, văng vẳng trong đầu. Cô muốn nói lại. Nhưng thay vào đó, cô duỗi chân ra và đá mắt về phía chiếc cửa.

“Tại sao cháu phá cửa vào phòng cô?”

“Đúng ra là nó không bị khóa.” Cậu nhóc chà chà bắp chân này bằng mũi giày chân kia. “Gram trông coi nơi này. Bà thấy xe của cô và bảo cháu tới xem có ai không.”

Cô cố kìm nén không muốn nói rằng “Gram” là người giúp việc nhiều chuyện nhất thế giới. Từ những gì cô thấy, chỉ có sàn nhà được quét qua loa và công việc quét dọn của Gram không bao gồm mặt bàn. “Gặp lại cháu ở trong bếp nhé Toby. Chúng ta sẽ nói chuyện ở đó.” Cô kéo thẳng chiếc quần ngủ nhàu nhĩ của mình rồi rời giường.

“Cháu sẽ gọi cảnh sát.”

“Tùy cháu thôi,” cô phản ứng lại. “Cô sẽ gọi cho Panda và nói rằng có một cậu nhóc 10 tuổi đã phá cửa phòng ngủ của anh ta.” Đôi mắt nâu ánh vàng lóe lên giận dữ. “Không phải 10 tuổi! Cháu 12 rồi.”

“Xin lỗi.”

Cậu nhóc ném cho cô cái nhìn không mấy thân thiện rồi nhàn tản đi ra khỏi phòng trước khi cô kịp tính toán làm thế nào để đáp lại nếu cậu nhóc có đột nhiên hỏi về tên thật của Panda. Khi cô xuống tới phòng bếp thì cậu nhóc đã biến mất.

Dãy phòng ngủ tầng trên có trần chéo xuống, đồ đạc ở trong phòng mỗi cái theo một phong cách khác nhau và những chiếc rèm cũ là một mớ hỗn độn của màu sắc. Một phòng ngủ lớn khác được mở rộng về chiều ngang, nắng xuyên qua khe hở trên những chiếc cửa sổ ám đầy bụi, đậu lại trên bốn chiếc giường tầng đã cũ với những miếng đệm mỏng được cuốn trên từng bậc thang. Cát từ những mùa hè lâu rất lâu rồi mắc lại trong khe nứt của miếng gỗ lót sàn và cô tưởng tưởng về những bộ đồ bơi ướt nước bị quăng vứt bừa bãi ở mọi nơi.

Ngôi ngà dường như đang chờ đợi gia đình Remingtons quay lại vào những kỳ nghỉ, để lại cuộc sống của họ ở Grand Rapids hay Chicago hay bất cứ thành phố nào nơi họ ở. Thứ gì khiến Panda mua lại một nơi như thế này? Và thứ gì đã níu kéo bước chân cô ở lại.

Cô mang theo tách cà phê mới pha được từ chiếc máy hiện đại của anh, qua cửa ra tới bên ngoài sân. Bầu trời buổi sáng trong trẻo và ngập nắng. Không khí thoáng đãng khiến cô nhớ lại về những buổi sớm tươi đẹp ở trại David (trại quân sự trên núi quận Frederick, tiểu bang Maryland. Nơi đây được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi miền quê của Tổng thống Mỹ cùng gia đình và khách mời của mình.), cái cảnh mấy đứa em của cô chạy đuổi nhau quanh bể bơi ở Aspen Lodge, trong khi bố mẹ cô chuẩn bị hành trang cho chuyến đi bộ đường dài chỉ hai người với nhau. Phía bên ngoài có một cây sồi già tỏa bóng râm với một bộ bàn ghế ngoài trời làm từ những ván gỗ ghép lại và những chiếc cọc kim loại dùng cho trò chơi quăng móng ngựa.

Cô khum tay quanh tách và phê và hít vào phổi cái bầu không khí trong lành, sảng khoái.

Ngôi nhà nằm bên một cái dốc đứng với những bậc thang bằng gỗ trong tình trạng lung lay, ọp ẹp, dẫn tới phía xa bên dưới một ngôi nhà đậu thuyền và bến tàu, cả hai đều bị thời tiết mài mòn khoác lên mình màu xám nhàn nhạt. Cô không hề thấy một bến tàu nào khác nhô ra từ những mỏm đá, không có bờ biển với những hàng cây tăm tắp và cũng không có bất kỳ một mái nhà nào. Ngôi già của gia đình Remington dường như là ngôi nhà duy nhất trên vịnh Goose.

Nước ở vịnh cứ như một bảng pha màu của người họa sỹ vậy, màu xanh thẫm ở giữa, màu xanh xam xám kéo dài lan ra tới bờ, với những vệt màu nâu điểm dọc theo bờ biển và bãi cát trải dài. Nơi vịnh giao hòa với hồ Michigan, mặt trời buổi sớm vảy những tia sáng óng ánh trên mặt nước gợn sóng.
Những chiếc thuyền buồm làm cô nhớ lại về cái bồn chồn lo lắng của mình tới ông ngoại, người vô cùng yêu thích căng buồm ra khơi. Cô biết mình không thể trì hoãn việc này thêm chút nào nữa. Cô đặt tách cà phê sang một bên và tìm điện thoại của mình, rồi cuối cùng cô gọi cho ông.

Kể cả trước khi cô nghe được cái giọng nghiêm túc có hơi hướng quý tộc của James Litchfield, cô đã biết chính xác những thói quen xấu vẫn còn y nguyên như khi làm Tổng thống Hoa Kỳ mà ông sẽ nói. “Lucille, ông không tán thành những việc cháu đang làm. Hoàn toàn không.”

“Nó xảy ra mà cháu không dự tính trước được.”

“Cháu biết ông ghét cay ghét đắng cái sự mỉa mai, châm biếm.”

Cô giật lọn dreadlock màu cam đung đưa cạnh tai mình.

“Mọi thứ tệ lắm ạ?”

“Cũng chẳng vui vẻ gì, nhưng Mat có vẻ như đã kiểm soát được cánh truyền thông rồi.” Giọng ông trở nên lạnh hơn. “Và ông cho rằng cháu gọi cho ông vì muốn ông bằng cách nào đó giúp đỡ, tiếp tay cho cháu hả.”

“Cháu cược là ông sẽ làm thế nếu cháu nhờ, phải không ông?” Mắt cô cay cay.

“Cháu giống mẹ ghê gớm.”

Ông không nói như đó là một lời khen nhưng cô vẫn thấy biết ơn ông vô cùng. Và rồi, trước khi ông kịp mắng, cô đã chỉ ra cái điểm mà cả hai đều muốn nói tới. “Bỏ đi khiến mẹ Nealy trở nên tốt hơn. Cháu chắc chắn rằng mình cũng như vậy.”

“Cháu không chắc về bất cứ thứ gì như vậy hết,” ông ngắt lời. “Cháu chỉ đơn giản là không biết phải làm gì kế tiếp và cháu không muốn đối mặt với hậu quả từ những hành động của mình.”

“Vâng.” Cô nói với ông những gì cô không thể chia sẻ được với ba mẹ. “Cháu bỏ rơi một người đàn ông hoàn hảo và chính bản thân cháu còn không rõ lý do là gì.”

“Ông chắc cháu có lý do cho riêng mình nhưng ông muốn cháu giải quyết xong trước khi ông chính mình bay tới Texas. Cháu biết rằng ông căm ghét cái bang đó.”

“Chỉ bởi vì ông không trúng cử ở đây. Cuộc bầu cứ đã gần 30 năm rồi ông. Có lẽ ông nên bỏ chuyện đó lại quá khứ rồi chứ?” Ông đằng hắng giọng rồi nói, “Cháu định kéo dài kỳ nghỉ này của mình tới bao giờ vậy?”

“Cháu cũng không chắc nữa. Một tuần? Cũng có thể hơn.”

“Và cũng chắc không muốn nói cho ông cháu đang ở đâu.”

“Nếu cháu nói, có thể ông sẽ buộc phải nói dối với người khác. Không phải là ông tệ ở khoản này nhưng không phải là không tốt khi đẩy một ông lão vào hoàn cảnh đó sao?”

“Cháu là cái đứa bất hiếu nhất.” Cô mỉm cười. “Cháu biết mà. Cháu cũng yêu ông, Gramps.” Ông không thích bị cô gọi là Gramps nhưng đó là cách cô đáp trả lại ông.

“Lucille.”

“Cháu đang ở nhà một người bạn trên một hòn đảo ở Great Lakes,” cô nói. “Nhưng hẳn là ông đã biết đều đó rồi.” Nếu ông chưa thì cũng sẽ phát hiện ra sớm thôi, kể từ lúc cô trả tiền thuê xe bằng chiếc thẻ của mình thì ba mẹ đáng mến của cô gần như chắc chắn là đang theo dõi.

“Vậy thì chính xác mục đích của cuộc gọi này là gì đây cô gái?”

“Để nói với ông... Cháu xin lỗi, cháu đã làm ông thất vọng rồi. Và cả gửi lời nhờ ông chăm sóc mẹ nữa. Cháu đã làm mẹ buồn rồi.”

“Ta không cần cháu gái mình nhắc nhở về cách ta đối xử với con gái đâu.”

“Cũng không hẳn là thế.”

Và bắt đầu một bài diễn thuyết về sự kính trọng, tính chính trực và trách nhiệm ông nói với cô. Thay vì lắng nghe, cô tự nhớ lại về cuộc trò chuyện với mẹ vài tháng trước.

“Con hiểu rằng mẹ ghen tị với cái cách con đối xử với ông,” Nealy nói.

Lucy ngước lên từ miếng bánh trứng dừa họ đang dùng tại nhà hàng ưa thích của họ ở Georgetown. “Ông là một người cha tệ với mẹ.”

“Và ông cũng là không phải là người ông tuyệt vời nhất trên thế giới. Ngoại trừ với con.”

Đó là sự thật. Mấy đứa em của Lucy tìm cách tránh ông bằng mọi giá nhưng ông và Lucy thì hợp nhau ngay từ phút đầu, kể cả khi cô đã tỏ ra nhiều chuyện và bất lịch sự lần đầu họ gặp mặt. Cũng có thể là bởi vì cô đã tỏ ra như vậy. “Ông yêu con,” cô nói. “Và ông cũng yêu mẹ nữa.”

“Mẹ biết,” Nealy đáp. “Nhưng mẹ sẽ không bao giờ trong một mối quan hệ thoải mái với ông như con được?”

“Mẹ quá bận tâm về điều đó rồi.”

Cô nhớ nụ cười của mẹ. “Không. Mẹ không có.”

“Ông cũng cần mẹ nhiều như mẹ cần ông vậy.” Lucy vẫn không hoàn toàn chắc mình định truyền đạt gì khi nói như vậy nữa.

Cho tới khi cuối cùng ông cũng đã kết thúc bài diễn thuyết của mình, cô nói với ông rằng cô yêu ông nhiều lắm và nhắc nhở ông chú ý chuyện ăn uống rồi yêu cầu ông đừng cố tỏ ra gắt gỏng với Tracy nữa.

Ông nói cô tự lo cho cái thân mình trước đi đã.

Sau khi ngắt điện thoại, cô hất nốt chút xíu cà phê còn trong cốc xuống đám cỏ rồi đứng dậy. Nhưng ngay khi cô chuẩn bị quay người trở lại ngôi nhà, cô nghe thấy một âm thanh kì lạ. Có người. Tiếng khi người đó vấp ngã và cố giữ thăng bằng. Nó phát ra từ lùm cây phía bắc bãi cỏ, sát với bìa rừng.

Khi cô quay lại nhìn, cô bắt gặp một tia lóe lên từ bóng chiếc áo vàng biến mất về phía rừng thông.

Toby đã theo dõi cô.