Đứng bên bờ vách núi, mấy trăm tòa kiến trúc màu trắng thu cả trong tầm mắt, vô số đền thờ, cung
điện, quảng trường thi đấu, trụ đá kỷ niệm, mỗi kiến trúc đều đẹp tinh tế vô ngần, tất cả đều là tác phẩm nghệ thuật.
Có thể nói, đây là quần thể kiến trúc quy mô lớn nhất, bảo tồn hoàn chỉnh nhất kể từ khi con người phát hiện ra các di
chỉ Maya cổ đại tới nay. Chúng nằm tản mát trong bóng cây, nhưng bóng cây hoàn toàn không che mờ được ánh sáng của
chúng, bụi cát phủ trên di chỉ, không sao che giấu nổi lịch sử huy hoàng; cỏ hoang chốn hư phế đang kể lại câu chuyện
về một nền văn minh sáng chói.
Con thú khổng lồ
Nhạc Dương và Trương Lập nhặt ngay khẩu súng dưới đất lên với tốc độ nhanh nhất có thể, Trác Mộc Cường Ba và Sean cũng
đứng bật dậy, chuẩn bị bỏ chạy bất cứ lúc nào, Sean nhanh nhẹn cho thịt cá sấu đã nướng chín vào túi. Lại nghe tiếng
"rắc rắc rắc" liên hồi, con vật đang lại gần tuyệt đối không thể nhỏ, bởi đây là âm thanh phát ra lúc nó cố len khoảng
trống giữa các cây, đè cho rễ cây biến dạng nát bấy. Sean cảnh giác nhìn đống thịt cá sấu nát bấy dưới đất, thầm nhủ
chẳng lẽ mùi máu tanh đã dẫn dụ loài thú lớn nào tới đây?
"Binh!" Con thú khổng lồ trong bóng tối hình như bị kẹt cứng giữa hai cây đại thụ, có vẻ như đang muốn hất cả cây mà
chui qua. Nhạc Dương ném một cây pháo sang lại chỗ đó, cùng lúc hét toáng lên: "Nhìn cái gì kìa. Á! Cá Sấu chúa! Là cá
sấu chúa đấy!"
Dưới ánh sáng lập loè, một cái miệng to như chậu máu đầy răng nhọn hoắt, cái đầu trông khá giống với đầu khủng long cổ
đại kẹt giữa hai thân cây, đang vùng vằng muốn thoát ra. Trong lúc tra tìm tư liệu, bọn Trác Mộc Cường Ba từng đọc một
bài báo kiểu chuyện lạ đó đấy, nói trong rừng nguyên sinh có một loài cá sấu thể hình siêu lớn, nhỏ hơn cá sấu khổng lồ
thời tiền sử, nhưng phải to gấp đôi cá sấu thông thường, người địa phương gọi chúng là cá sấu chúa, nghe nói cũng là
một loại biến chủng kỳ dị, giống như ếch máu hay ếch khổng lồ vậy. Giờ đây, trước mắt bốn người là một con cá sấu to
tới bất thường, riêng cái đầu thôi đã gấp đôi con cá sấu họ vừa làm thịt rồi, dù ánh sáng không chiếu tới phía sau hai
gốc cây, nhưng từ tỷ lệ cái đầu cũng đoán được, đây chắc chắn là một con cực lớn, chiều dài phải chừng năm mét trở
lên.
Trương Lập và Nhạc Dương nhân lúc con cá sấu khổng lồ còn chưa xông qua được khe kẹt giữa hai gốc cây, nổ súng xạ kích,
nhưng đạn bắn vào da con quái, chỉ nghe "cạch cạch" rồi bật cả ra ngoài. Con cá sấu nổi cơn điên, dùng hết sức chen
mạnh, không ngờ đã chen cả nửa thân ra khỏi chỗ kẹt, xem ra nửa thân sau cũng sắp thoát ra tới nơi, Sean vội kêu lên:
"Chạy mau!"
Bốn người vừa ăn được một nửa, đã lại buộc phải bắt đầu tập chạy bộ nhảy vào trong rừng luôn.
Con cá sấu chúa kia lao vụt qua vùng ánh sáng, bốn chân guồng như máy, tưởng như muốn bay lên khỏi mặt đất, tốc độ
nhanh tới kinh người, thể hình quả nhiên dài khoảng năm mét, cái miệng đầy răng nhọn lởm chởm kia ước chừng chỉ cần một
phát là có thể nuốt nguyên cả một người sống. Nhạc Dương thấy ánh lê thấp thoáng, liền rú lên: "Xem kìa, nó đang khóc,
chắc là chúng ta xơi mất con của nó rồi!" Trương Lập quát: "Bớt chút sức lực chạy nhanh lên, tôi thấy quá nửa là tại nó
ngửi thấy hormone nam tính trong người Cường Ba thiếu gia nên mới mò tới đấy."
Nhạc Dương vừa chạy vừa chửi bới: "Ông Trời chết toi, rừng rậm chết toi, chết toi" Trương Lập hỏi: "Liên quan gì tới
ông Trời?" Nhạc Dương nói: "Nếu không phải trận mưa đó thì làm gì có lũ, nếu không có lũ thì chúng ta làm sao bị cuốn
tới chỗ này, nếu không phải ở đây thì chúng ta là gì đến nỗi phải vào khu rừng đáng sợ này, nếu không vào đây làm sao
chúng ta đụng phải lũ quái vật này anh nói đi, chẳng lẽ không trách được ông Trời à?" Trương Lập lắc đầu: "Nếu nói như
vậy thì không đúng rồi, nói theo kiểu của cậu, nếu không có lần huấn luyện này sao chúng ta phải đến cái chỗ đáng sợ
này chứ, muốn trách thì phải trách giáo quan ấy." Nhạc Dương nói: "Không sai, giáo quan đúng là đồ ác quỷ!"
Sean thì không hiểu hai người nói gì, Trác Mộc Cường Ba trong đầu đang căng thẳng tính toán: cứ theo tốc độ này, sớm
muộn gì cũng bị nó bắt kịp, bốn người chạy liên tục cả đêm, thể lực còn chưa kịp hồi phục. Nếu nói sinh vật này có linh
tính hay dựa vào dấu vết mùi vị gì để phán đoán đồng loại đã bị hại, nói thế nào thì cũng sẽ tìm tới gã, đâu cần phải
hy sinh vô ích làm gì, nếu chạy vòng qua chỗ cây rừng mọc dày đặt hơn, con quái vật không chui qua được, có lẽ là sẽ
thoát. Chủ ý đã quyết, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên chuyển hướng rẽ sang trái, kêu lên trong ánh mắt kinh hoảng của ba
người còn lại: "Tách ra! Chạy vào chỗ nào có nhiều cây ấy!"
Sean hét lớn: "Không thể tách ra được ! Không tách được!" Trác Mộc Cường Ba mặc kệ Sean, ra sức vung vẩy ống pháo sáng
trong tay. Quả nhiên con cá sấu chúa kia vẫy mạnh đuôi, quật cho rễ cây xung quanh gãy nát kêu "răng rắc", rồi chuyển
hướng đuổi theo gã.
Trác Mộc Cường Ba gắt lên: "Đừng chạy theo, các anh đi trước đi, tôi sẽ nghĩ cách thoát khỏi nó!"
"Xem chưa, tôi nói đúng rồi còn gì." Trương Lập nhìn con cá sấu chúa đuổi theo Trác Mộc Cường Ba, miệng thì nói vậy,
nhưng trên mặt lại hoàn toàn không có vẻ gì là đang đùa cợt, hậu quả của việc bị con quái đó bắt kịp, ai cũng đều biết
cả. Nhạc Dương cũng nghĩ hệt như Trương Lập, liền tức khắc đuổi theo sau con cá sấu, Sean cũng theo sát phía sau. Vì
con quái có thể ngoảnh đầu lại đớp bất cứ lúc nào, ba người chi dám chạy xa xa phía sau, không dám lại gần. Vừa chạy
được một lúc, Sean ở phía sau bỗng nhiên giơ tay ra, kéo cổ áo Trương Lập và Nhạc Dương lại. Trương Lập kêu toáng lên:
"Làm cái gì vậy?" Nhạc Dương cũng hỏi: "Chuyện gì thế?"
Chỉ thấy dưới ánh sáng ma giê, gương mặt trắng bệch của Sean ánh lên sắc xanh, lo ngại nói: " Không ngửi thấy gì
à?"
Trương Lập híc mạnh một cái, chau mày nói: "Tanh quá, chẳng lẽ ở đây có cá chết à? Mùi tanh quá đi."
Sean trầm giọng nói: "Mùi tanh này các anh đã xem một bộ phim, tên là Anaconda chưa?" Anh ta đột nhiên đổi chủ đề
Nhạc Dương không nghĩ ngợi gì đã đáp ngay: "Xem rồi, phim thảm họa phải không, sợ ra phết, thực ra làm gì có loại rắn
nào to thế chứ. Hả? Sao anh tự dưng hỏi câu này vậy?"
Sean nhìn chằm chằm xuống đất: "Nếu tôi nói cho các anh biết, đó là thật thì sao?"
Trương Lập mỉm cười, nói: "Làm gì có chứ, trănkhổng lồ!" Nói tới đây, bỗng nhiên sực nhớ ra chuyện gì đó. Sean làm dấu
chữ thập trước ngực, lẩm bẩm nói: "Chúng ta cầu nguyện cho Johnson đi!"
Trác Mộc Cường Ba giở hết bản lĩnh, leo lên nhảy xuống, chỉ nhằm vào chỗ nhiều cây mà chạy, cuối cùng ánh lửa phía sau
cũng không chạy theo nữa, gã thầm thở phào một hơi. Nhưng con cá sấu chúa khổng lồ kia thì cứ bám chặt không chịu buông
tha, mỗi lần gặp phải khe hẹp cản trở, nó lại vòng qua đuổi tiếp, các bụi cây nhỏ thấp thì xông thẳng qua luôn, giống
như một chiếc xe tăng đang càn quét trong khu rừng vậy. Cây cổ thụ phía trước có một nhánh mọc chéo chéo xuống đất,
giống như bắc một cây cầu dốc hướng thẳng lên cây vậy. Trác Mộc Cường Ba cả mừng, vì cây ở đây đều rất to nên không thể
trèo lên được, giờ tự dưng có đường tắt, gã liền lập tức chạy vù lên, trong lòng thầm nhủ con cá sấu kia quá nặng nề,
quá nửa là không thể lên theo được, dù có lên được chăng nữa, với thể hình to lớn như thế, ở trên cây nó cũng không thể
muốn làm gì là làm được.
Cành cây đó ban đầu hơi nhỏ, càng lên cao thì càng lớn, Trác Mộc Cường Ba chạy lên được một nửa, dưới chân đã chẳng
khác gì mặt đường bằng phẳng rộng một mét, nhưng càng lên cao thì cành cây lại càng ẩm ướt, ngược lại còn khó đi hơn.
Trác Mộc Cường Ba dùng cả chân lẫn tay, nửa bò nửa chạy, được nửa đường thì bị trượt chân, gã vội vàng ôm cả người vào
đó, người sang trên tay rơi xuống đất, hồi sau, bên dưới mới vang lên tiếng ống pháo sáng chạm đất. Trác Mộc Cường Ba
nghiêng đầu nhìn thử, thấy mình đã cách mặt đất chừng hai ba chục mét, tán cây trên đầu phản xạ ánh trăng nên cũng lờ
mờ nhìn thấy, vài tia sáng xuyên qua cành lá, rải xuống những đốm bàng bạc. Bỗng nhiên thân cây khổng lồ ấy rung lên,
ngoảnh mặt quan sát, chỉ thấy bóng đen to tướng đó đang chầm chậm bò lên, không ngờ móng vuốt của con quái vật lại găm
được vào thân cây như móc sắt, ngược lại còn leo lên nhanh hơn cả Trác Mộc Cường Ba. Gã không kịp nghĩ ngợi gì nhiều,
đành gia tăng tốc độ bò tiếp lên trên, bất chợt, cành cây phía trước gã hình như nhúc nhích, Trác Mộc Cường Ba tưởng
rằng mình bị hoa mắt, đúng lúc ấy, một cơn gió tanh thổi tới, thân cây phía trước Trác Mộc Cường Ba bất ngờ dựng đứng
lên, lộ rõ bản mặt của nó dưới ánh trăng!
Trác Mộc Cường Ba nín thở, trợn tròn mắt lên, đờ đẫn ngẩng đầu, ngây ra nhìn con hung thú trong truyền thuyết đang ở
ngay trước mặt, chỉ thấy thân hình khủng khiếp của nó đang ngồn ngộn dưới ánh trăng, đôi mắt to như đèn lồng đang nhìn
chằm chằm vào người gã, cái miệng phả ra hơi tanh thối lè lè lưỡi, nó là thứ có thể khiến mọi sinh vật khác dâng lên
cảm giác sợ hãi tự nhiên, đồng thời cũng là mắt xích cuối cùng trong chuỗi thức ăn ở đại lục Nam Mỹ này.
Anaconda, trăn khổng lồ Nam Mỹ, là cá thể có hình thể lớn nhất trong các loải động vật họ rắn, một con Anaconda trưởng
thành bình quân dài hơn mười mét, bảo nó to hơn cái thùng nước thì cũng không quá đáng chút nào, đây mới là thợ săn
siêu cấp của rừng già. Sức mạnh của báo châu Mỹ khiến nó trở thành tượng trưng của vương quyền ở Nam Mỹ, còn Anaconda
loài vật với ưu thế vượt lên tất cả này đã trở thành tượng trưng cho thần quyền cổ nhân sùng bái nó, Anaconda, là chung
cực của mọi sức mạnh, khả năng của con người không thể so sánh được. Đây là tên thợ săn quen thói ôm cây đợi thỏ, nó có
thể ở nguyên một chỗ mấy tháng liền không ăn không uống, nếu có con mồi nào đi qua phạm vi khống chế, nó sẽ không chút
do dự mà cuộn lấy, rồi lợi dụng ưu thế tuyệt đối về thể hình của mình, dù con mồi có lớn thế nào cũng nuốt trọn, rồi
lại ẩn đi, mấy tháng sau không cần ăn uống. Loài sinh vật đáng sợ này, cả bọn báo châu Mỹ gặp phải cũng không thể không
nhượng bộ lui bước.
Trác Mộc Cường Ba bị kẹt giữa cành cây, phía trước là ánh mắt tà ác của con trăn khổng lồ Nam Mỹ đang nhìn món điểm tâm
tự dưng đưa tới tận miệng; sau lưng con cá sấu chúa đã hoàn toàn chặn mất đường lui, cái miệng đầy răng lởm chởm ấy
thâm chí còn to hơn cả con mãng xà kia nữa; giờ chỉ còn cách nhảy xuống, nhưng chỗ này cách mặt đất tới hai ba chục
mét, khác gì toà nhà mười tầng đâu. Trác Mộc Cường Ba cơ hồ muốn ngất xỉu, gã vỗ vỗ khắp người, tìm xem có thứ gì dùng
được không. Cuối cùng, gã cũng rờ được con dao găm của Trương Lập, chuyện đã đến nước này rồi, cũng chỉ còn cách đánh
liều một phen mà thôi. Thân thể to lớn của con trăn Nam Mỹ từ trên không bổ tới, còn con cá sấu chúa kia cũng bật mình
vọt lên, ngoác cái miệng to như chậu máu
Trác Mộc Cường Ba cầm chắc con dao trong tay, thầm cầu nguyện trong đầu, rồi nghiến răng lăn tròn một vòng xuống bên
dưới cành cây, đồng thời vung tay đâm mạnh con dao lên trên, dùng hết sức lực cắm ngập cả con dao vào cành cây đó. Lưỡi
dao găm sắc bén hơi trượt xuống dưới, cuối cùng cũng giúp Trác Mộc Cường Ba trụ lại. Cùng lúc ấy, một tiếng "bình" vang
lên, con trăn khổng lồ và con cá sấu chúa kia đã húc thẳng vào nhau, hai con quái thú cùng phẫn nộ gầm ghè, con trăn
quấn vào, thân thể co chặt, lập tức làm con cá sấu kia rống lên; cá sấu chúa cũng không chịu kém, tứ chi chĩa ra ngoài
điên cuồng cào cấu cào vùng da bụng mỏng nhất của con trăn. Hai con thú dữ quấn chặt vào nhau, lăn nửa vòng rồi rơi
thẳng xuống dưới. Độ cao này với con người thì khó mà thoát chết, song với hai con thú khổng lồ này lại chẳng gây ra
bất cứ tổn thương nảo, mà ngược lại còn làm chúng quấn chặt vào nhau hơn. Trác Mộc Cường Ba khó khăn lắm mới leo trở
lại được cành cây xiên chéo ấy, bàn tay vẫn còn hơi run run. Lúc này gã mới sực nhớ ra, hai loài này vốn đã có thâm thù
truyền kiếp, trăn Nam Mỹ còn nhỏ rất dễ bị cá sấu xơi tái, còn lúc chúng lớn lên rồi, liền quay trở lại bắt cá sấu ăn,
mối thù này, chẳng biết đã có từ mấy vạn năm trước rồi.
Không dám ở lại lâu, nhân lúc hai con quái thú còn đang quần thảo, Trác Mộc Cường Ba vội vàng leo xuống bỏ chạy thục
mạng, giờ đã biết trên cây có loại sinh vật đáng sợ này, có nói gì gã cũng không dám leo lên nữa rồi. Lại một lần mất
đi nguồn sáng, trong bóng tối cũng không thấy ánh đèn của bọn Nhạc Dương, Trương Lập, mới vòng vòng mấy lượt, Trác Mộc
Cường Ba đã nhận ra, gã đã lạc đường. Cây cối trong rừng đều rất lớn, nhiều nơi buộc phải đi vòng qua mới được, cộng
với hơi nước mù mịt khiến cảnh vật trước mặt đều mông lung, vòng qua vòng lại, căn bản không thể biết mình đang ở chỗ
nào nữa. Trác Mộc Cường Ba nắm chắc con dao, công cụ phòng thân duy nhất của gã lúc này, đến giờ gã mới hiểu được, tại
sao khu rừng này lại tĩnh lặng như vậy, có bọn thợ săn siêu cấp này tiềm phục bên trong, thử hỏi còn loại động vật nào
dám tiến vào đây nữa chứ. Đêm tối, mệt mỏi, đói khát, nhưng lại không dám nhắm mắt vì sợ hãi, giờ thì gã chỉ còn lại
một mình, đây là lần đầu tiên, lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba cảm thấy bất lực đến thế. Trên thương trường, trong những
khu rừng khác, gã đã biết sợ là gì đâu? Nhưng giờ đây, trên mảnh đất hoàn toàn xa lạ này, mỗi sinh vật đều có thể đẩy
gã vào chỗ chết. Khi những cảm xúc bất an và nơm nớp lo sợ đó trào dâng, Trác Mộc Cường Ba chợt cảm thấy, gã cần được
giúp đỡ, dù chỉ là một người để nói chuyện thôi cũng tốt lắm rồi. Cảm giác này thật hệt như hai mươi năm về trước, mở
mắt trân trân ra nhìn người thân nhất bị kẻ khác bắt đi, nằm trên mặt đất băng lạnh, cố nhịn cơi đau bụng, lúc đó,
trong lòng gã cũng vang lên một âm thanh run rẩy: ai đến giúp với, ai đến giúp tôi với!
Con người ai chẳng lớn lên trong vòng tay bảo vệ của mẹ cha, sống thì hoạt bát, chết thì cứng đờ, những người bề ngoài
kiên cường mấy chăng nữa thì nội tâm cũng chỉ như con ốc sên núp kín trong vỏ, lúc nào cũng hoang mang lưỡng lự, chẳng
ai tránh được. Đời người lúc nào cũng có quá nhiều trắc trở, cuối cùng bao giờ cũng có một khó khăn không thể vượt qua,
không ai vượt qua được. Rượu mạnh chỉ có tác dụng tê liệt thần kinh, không phải tinh thần; khi khó khăn vượt quá cực
hạn chịu đựng, ý chí của con người ắt sẽ sụp đổ. Nếu nói đây là một khảo nghiệm, vậy thì Trác Mộc Cường Ba cho rằng vậy
đã là quá đủ rồi, gã không muốn tiếp tục khảo nghiệm thêm một chút nào nữa, tất cả chuyện này đã vượt quá phạm trù khảo
nghiệm, thuần tuý chỉ là giày vò hành hạ, đày đoạ của thể xác lẫn tinh thần. Cứ tiếp tục thế này, gã sẽ không cầm cự
nổi, thể lực, ý chí, tinh thần đều đã tới cực hạn chịu đựng, bao nhiêu áp lực sinh tồn đè nén, làm gã đã không sao thở
nổi.
Trác Mộc Cường Ba tựa như một kẻ lữ hành trong sa mạc bị mất nước, lê đôi chân nặng như đeo chì tiếp tục tiến lên. Khu
rừng tĩnh mịch ẩn chứa những uy hiếp chí mạng, xung quanh chỉ có bóng đêm vô cùng tận, mỗi tiếng động nhỏ vang lên đều
khiến trái tim gã không thể kiềm chế mà đập như điên cuồng mấy phút liền, nơi đây đúng là một vùng đất ma quỷ. Trác Mộc
Cường Ba không còn đi nổi nữa, gã dựa vào một thân cây ướt rườn rượt nghỉ ngơi, ra sức hất nước lạnh lên người mình.
Nếu như vậy còn không hết buồn ngủ, gã sẽ dùng dao rạch da ra, đau tới thấu xương, chỉ có cơn đau mới đuổi được cơn
buồn ngủ; chỉ có không ngủ, gã mới có hy vọng sinh tồn.
Gã không biết mình đã đi như thế bao lâu, bóng đêm trải ra vô tận, dừng một chút, rồi lại tiếp tục tiến lên phía trước,
gã ngẩng đầu nhìn trời, chút ánh sáng mờ mờ lấp ló qua cành lá chứng tỏ giờ vẫn là đêm, vẫn chỉ có ánh trăng. Trác Mộc
Cường Ba ngầm tự hiểu, giờ muốn gặp lại bọn Sean và Trương Lập, Nhạc Dương, hy vọng thật quá mong manh, muốn ra khỏi
khu rừng này, sợ rằng cơ hội còn mong manh hơn bội phần.
Bỗng một tiếng "soạt" vang lên, trong bụi cây phía trước lại xuất hiện một con trăn khổng lồ to bằng người. Trác Mộc
Cường Ba lúc này lòng nguội ý lạnh, ở nơi thế này gặp phải con quái vật như vậy, cả sức lực bỏ chạy cũng tiết kiệm được
luôn, gã thầm nhủ: "Cuối cùng vẫn không thoát khỏi đây được rồi." Con trăn Nam Mỹ dài cả chục mét kia lúc này còn cách
Trác Mộc Cường Ba chừng ba chục mét, như một mũi tên, thân hình uốn èo đã bổ về phía gã, tốc độ kinh người. Trác Mộc
Cường Ba nhắm nghiền mắt lại chờ đợi, chợt nghe một tiếng động lớn, mở mắt ra xem, thì thấy con trăn kia đang lăn lộn
dưới đất, trong đêm tối nhìn không được rõ lắm, nhưng chất dịch nhầy dinh dính của nó thì đã phun đầy người gã, tanh
hôi khủng khiếp. Trác Mộc Cường Ba không dám tin mình lại may mắn tới vậy. Con trăn kia lăn lộn một lúc rồi nằm im bất
động, xem ra là do máu đã chảy hết. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận nhích lên, dưới chân không biết giẫm phải thứ gì liền té
bổ nhào xuống, thò tay ra sờ thử chỉ thấy vừa dính vừa mềm, con trăn lớn kia không ngờ bị rạch toác cả bụng, bao nhiêu
thứ bên trong chảy hết cả ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, mượn ánh trăng yếu ớt quan sát, quả nhiên dưới đất thấy
có anh sáng loé lên, nửa lưỡi dao sắc lẻm dựng đứng trên mặt đất, lộ lên trên chừng ba mươi centimet, vừa rồi con trăn
bò trườn dưới đất, lưỡi dao lạnh lẽo này đã không chút khách khí rạnh đôi phần bụng nó ra. Trác Mộc Cường Ba không đụng
tới lưỡi dao đó, kiểu chuôi dao này vốn là kỹ thuật chỉ có những thợ săn cực kỳ lão luyện mới biết sử dụng, rắn có
đường của rắn, cáo có vết của cáo, những thợ săn trong rừng sâu núi thẳm thường nói với nhau như vậy. Chôn lưỡi dao
trên đường rắn thường bò qua, có thể giết rắn trong vô hình, không ngờ trong rừng này không chỉ có người, lại còn có cả
bẫy rập do con người bố trí. Mạng gã chính là do người thợ săn vô danh kia cứu về, Trác Mộc Cường Ba cười khổ một
tiếng, trong màn sương phía trước chợt thấp thoáng một bóng ảnh, không hiểu lại là gì nữa. Trác Mộc Cường Ba đứng
nguyên tại chỗ như lão tăng nhập định, cảnh giác nhìn chằm chằm về phía có âm thanh truyển tới kia.
Bỗng nhiên có tiếng gió nổi lên phía trái, Trác Mộc Cường Ba rùn người né tránh, đồng thời đá tạt ra sau một cú, chỉ
một động tác này là gã đã biết đồi phương là người, bởi chỉ có con người mới có thể lặng lẽ vòng ra sau lưng kẻ địch
trong thời gian ngắn như vậy, mà đòn vừa tấn công gã ban nãylà tiếng gió của bàn tay tạt ra! Người kia đột nhiên biến
chiêu, chặt xuống đùi Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh hãi, phản ứng như gã đã là hiếm có rồi một cước
này vừa nhanh vừa ổn, người khác khó lòng cản nổi, hơi nghiêng người rồi tung chân đá ra luôn, dù đối phương có giỏi
thì gã cũng vẫn kịp quay đầu lại đối mặt với y, nhưng kẻ tập kích này rõ ràng là tài cao hơn gã một bậc, không ngờ nửa
đường vẫn biến chiêu được. Trác Mộc Cường Ba rụt chân về, đột nhiên xoay dao găm đâm ra, cùng lúc ấy cũng chớp cơ hội
quay đầu lại. Đúng vào khoảnh khắc đó, người kia cũng ung dung bắt lấy cổ tay gã, hơi dùng sức vặn một cái, dao găm lập
tức rời tay, kế đó là một đòn chặt nhằm tới cổ họng gã. Trác Mộc Cường Ba bị giữ cổ tay, hơn nữa còn bị cầm đúng chỗ
hiểm, có thể nói là hoàn toàn không thể phản kích, trong lúc cuống cuồng, gã chỉ kịp hét lên: "Á La thượng sư!"
Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy cổ họng hơi nhói đau, bàn tay đối phương đã dừng sững lại cách cổ họng gã chưa đầy một
centimet. Tiếp sau đó, bên tai gã cũng vang lên giọng hơi khàn khàn của lạt ma Á La: "Cường Ba thiếu gia, sao câu lại ở
đây?"
Trác Mộc Cường Ba thực ra cũng không nhìn rõ người mới xuất hiện là ai, chỉ thấy cái đầu trọc phản chiếu dưới ánh
trăng, đành đánh liều một phen. Ngay từ đầu gã đã biết, năng lực cận chiến của người này cao hơn mình rất nhiều, gù
không phải lạt ma Á La, nghe gã nói vậy, nói không chừng cũng sẽ hỏi cho rõ rồi mới ra tay hạ sát thủ cũng nên. Trác
Mộc Cường Ba sờ sờ cổ họng vẫn còn đang đau, vừa kinh ngạc lại vừa mừng rỡ, tựa như người chết đuối vớ được phao, nhất
thời chẳng nói được tiếng nào.
Chuyến đi của lạt ma Á La
Lạt ma Á La cũng giống như Trác Mộc Cường Ba, hai tay trống không, quần áo rách rưới, nhưng tinh thần thì có vẻ tốt hơn
Trác Mộc Cường Ba nhiều.
Dăm câu ba điều, Trác Mộc Cường Ba kể vắn tắt lại cho lạt ma Á La những chuyện gặp phải trong hơn mười ngày qua bằng
lời lẽ đơn giản nhất. Lạt ma Á La vừa nghe, vừa lột da con trăn, lấy dao lóc chỗ thịt rắn mềm nhất ra ăn sống tại chỗ,
còn chia phần cho Trác Mộc Cường Ba nữa. Nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa ngửi thấy mùi tanh đó là muốn nôn oẹ, nói thế nào
cũng không nuốt trôi. Lạt ma Á La nhắc nhở: "Cường Ba thiếu gia, con người ở trong hoàn cảnh cực cùng, cái gì cũng phải
ăn hết. Đây là đồ ăn thượng hảo hạng đó, cũng là hy vọng duy nhất đảm bảo cậu sẽ tiếp tục sống, cả chuyện này mà cậu
cũng không làm nổi, thì làm sao mà đi tìm Bạc Ba La, làm sao mà đi tìm Tử Kỳ Lân hả?"
Lạt ma Á La nói vậy, Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại cũng thấy đúng, cả Sean còn có thể ăn nhện để sống, tại sao gã lại
không thể chứ? Nghĩ đoạn, gã không nói lời nào, đón lấy một miếng thịt lưng trăn, tay xé miệng nhai nuốt ừng ực, mới
đầu dạ dày sôi lên ùng ục, sau khi cố ép cảm giác muốn nôn đó xuống, dần dần cũng thấy thịt trăn này không khó ăn cho
lắm. Hai người ngồi luôn đó, vừa ăn vừa nói chuyện mình gặp phải trên đường.
Hầu hết những gì Trác Mộc Cường Ba kể, lạt ma Á La đều không lưu tâm lắm, có điều khi gã kể tới bộ lạc Kukuer, ông bắt
đầu lưu tâm, hỏi cặn kẽ về tập quán sinh sống, tình tiết trong lễ tế của người Kukuer, căn vặn kỹ càng nhất là về bài
sử ca kia. Chỉ tiếc thứ Trác Mộc Cường Ba nhớ ít nhất lại chính là bài ca đó, lạt ma Á La lắc đầu không thôi, hồ như
cảm thấy hết sức tiếc nuối vì mình không được đến thôn làng của người Kukuer vậy.
Khi Trác Mộc Cường Ba kể tới đoạn lũ chó trong bộ lạc Kukuer đều không sủa, người kể vô ý, nhưng người nghe lại có tâm,
hai mắt lạt ma Á La sáng bừng lên, không khỏi mỉm cười. Hành động kỳ dị của vị lạt ma thường ngày ít nói chẳng cười này
tự nhiên không thể thoát khỏi ánh mắt của Trác Mộc Cường Ba, gã không kìm được buột miệng hỏi: "Có phải thượng sư biết
chuyện gì rồi không?"
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, đoạn hỏi ngược lại: "Nói tới chó, Cường Ba thiếu gia lớn lên ở quê hương
chó ngao, chắc hẳn cũng đã nghe không ít truyền thuyết liên quan tới chiến ngao rồi chứ?"
Trác Mộc Cường Ba lại gật gật đầu tiếp.
Lạt ma Á La hỏi tiếp: "Vậy xin hỏi Cường Ba thiếu gia, câu có biết chiến ngao có một đặc điểm là gì không?"
Trác Mộc Cường Ba ngớ người ra, truyền thuyết về chiến ngao thì gã đã nghe không ít, nhưng phương pháp bồi dưỡng huấn
luyện chiến ngao thì đã thất truyền từ lâu, giờ trên toàn thế giới cũng chẳng có con chiến ngao nào cả. Trác Mộc Cường
Ba từng mời các chuyên gia huấn luyện chó tới huấn luyện cho lũ ngao ở cơ sở của gã, song đám to xác ấy tính cách hết
sức quật cường, vẫn chẳng biết sợ gì cả, không dập đầu vào tường thì không quay đầu, mà đập đầu vào tường rồi cũng
không chịu quay đầu, còn chiến ngao trong truyền thuyết thì không phải vậy, nó nhanh nhạy, thông minh, có thể phán đoán
tình huống trong lúc nguy cấp nhất, dùng phương pháp có hiệu quả nhất để cứu chủ. Nhưng còn đặc điểm của chiến ngao,
ngoại trừ thông minh đặc biệt ra, Trác Mộc Cường Ba quả thực không nghĩ ra còn gì khác nữa, cả lại, chuyện này và chó
của người Kukuer nuôi không sủa có liên quan gì với nhau chứ?"
Lạt ma Á La điềm đạm nói: "Một con chiến ngao đạt tiêu chuẩn, cả đời cũng không sủa tiếng nào."
"Cáicái gì hả?" Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba nghe được chuyện này, chiến ngao không sủa? Gã cười khổ nói: "Tôi
không hiểu ý thượng sư lắm."
Lạt ma Á La nói: " Không sai đâu, cách huấn luyện chiến ngao cổ đại đã thất truyền, nhưng Cường Ba thiếu gia, cậu đã
bao giờ nghe thấy trong truyền thuyết nào nhắc đến chuyện chiến ngao gào rú hay sủa ầm ĩ chưa? Chiến ngao sở dĩ có thể
trở thành chiến ngao, tượng trưng cho bách chiến bất bại, chính là vì có khả năng chúng là loài chó ám sát duy nhất
trên thế giới này. Như cậu biết đấy, chó ngao có thể hình khoẻ mạnh cao lớn, chạy ào ào như gió, sức khoẻ như trâu,
móng sắc như hổ báo sư tử, vốn đã là giống chó xuất chúng trong các loại chó, chỉ với ưu thế về thân thể, người ta cũng
có thể liệt nó vào hàng đại sư chiến đấu rồi. Có điều, một con chiến ngao đạt tiêu chuẩn, tuyệt đối không giống như vị
tướng quân chiến thắng trở về, hay võ sĩ quyền Anh vừa vô địch, bước đi huênh hoang cao ngạo, điệu bộ như coi thường cả
thiên hạ đâu. Thực tế hoàn toàn ngược lại, chiến ngao được huấn luyện thành thục, nó sẽ thu mình lại, ẩn giấu nanh
vuốt, ánh mắt cũng không hung ác tàn bạo, nó sẽ cúi gằm đầu xuống, tai cụp che mắt, trông như một con chó bình thường
hoàn toàn không có gì nguy hiểm vậy. Thậm chí khi kẻ thù lại gần, nó còn làm ra vẻ mệt mỏi lười nhác, nằm ườn ra đất
ngủ khò khò, kỳ thực là đang ngấm ngầm tính toán khoảng cách giữa mình và kẻ địch, chỉ cần kẻ đó bước vào phạm vi công
kích, chiến ngao sẽ như một con rắn độcvù." Nói tới đây, lạt ma Á La chặt tay về phía trước, phát ra một tiếng
"vù".
Trác Mộc Cường Ba không kiềm chế được tự lùi về phía sau một bước, phảng phất như cổ họng mình đã bị con thú hung mãnh
ấy cắn trúng. Chiến ngao không sủa, đích thực đây là lần đầu tiên gã nghe nói đến , không khỏi có chút đờ đẫn thần
người ra. Đặc biệt là câu "chiến ngao sở dĩ trở thành chiến ngao, chính là vì chúng là loài chó ám sát" , làm gã cực kỳ
chấn động, đó khác gì một người vốn đã là cao thủ tuyệt thế, lại chuyên đi ám sát, thử hỏi có chuyện gì đáng sợ hơn nữa
đây chứ.
Lạt ma Á La không biết Trác Mộc Cường Ba nghĩ gì, lại nói tiếp: "Tại sao chỉ có truyền thuyết một ngao giết mười sói,
một ngao đấu ba hổ, mà các loại chó khác không làm được? Đó chính là vì chiến ngao rất tinh thông thuật ám sát, chúng
biết tiềm phục ẩn nấp giống bọn hổ báo, lặng lẽ chờ đợi kẻ địch xuất hiện; chúng còn rải hơi mùi của mình khắp chiến
trường để làm hỗn loạn quân địch, còn chính chúng lại dùng mùi của một số thực vật hoặc động vật khác để che lấp hoàn
toàn mùi của mình đi; chúng đớp một phát là nhằm ngay cổ họng kẻ thù, coi trọng một đòn chí mạng với tốc độ nhanh nhất,
sau đó kéo xác kẻ thù ra chỗ dễ nhìn để dẫn dụ bọn khác hiện thân. Khi đối mặt với kẻ địch đông hơn, chúng sẽ dựa vào
yêu cầu trên chiến trường mà phán đoán xem nên tấn công kẻ mạnh nhất hay yếu nhất, uy hiếp kẻ thù, phân hoá kẻ thù, dẫn
dụ kẻ thù. Chúng giống như những nhà chỉ huy am hiểu chiến thuật, vừa có thể hợp lực tác chiến, cũng thiện nghệ hơn đơn
đả độc đấu. Chiến ngao được huấn luyện đặt biệt có thể trèo lên cây, lặn dưới nước, phân biệt được những mùi mờ nhạt
nhất trong không khí, truy kích kẻ địch ngoài trăm dặm. Có thể nói thế này, phóng mắt nhìn khắp loài chó, chỉ có chiến
ngao, mới có thể đối phó được chiến ngao mà thôi."
Lạt ma Á La nhắm mắt lại, thở dài một tiếng, cơ hồ như nhớ lại gì đó, than rằng: "Nhớ năm đó, thời cương triều Thổ Phồn
còn lớn mạnh nhất, từng có một quân đoàn như thể, mỗi chiến sĩ đều có một con chiến ngao phối hợp, quân đoàn ấy, đã trở
thành huyền thoại bất bại trên chiến trường. Cũng chính vì đám chiến ngao đó hành động trong đêm, hễ đánh là thắng, nên
mới trở thành trợ lực rất lớn trong rất nhiều truyền thuyết về thần phật. Còn Tử Kỳ Lân mà Cường Ba thiếu gia muốn tìm
kiếm, chính là một trong nhiều phiên bản truyền thuyết về chiến ngao đó thôi."
Trác Mộc Cường Ba ngây ra một hồi lâu mới định thần lại được, đúng là gã đã nghe không ít truyền thuyết liên quan tới
chiến ngao, nhưng truyền thuyết dù sao vẫn là truyền thuyết, chứ nói rành mạch rõ ràng như lạt ma Á La, phảng phất như
đã tận mắt trông thấy thì mới là lần đầu tiên. Còn trận đại chiến chiến ngao ngàn năm về trước, lại càng khiến tâm tư
Trác Mộc Cường Ba miên man bất định. "Sao thượng sự biết nhiều chuyện về chiến ngao vậy?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.
Lạt ma Á La mỉm cười đáp:"Trong những kinh điển mà ta tiếp xúc, có rất nhiều đoạn miêu tả cảnh tượng chiến ngao chiến
đấu, vì vậy, hiểu biết của ta về chiến ngao, có lẽ nhiều hơn trong truyền thuyết một chút." Nói tới đây, trong lòng ông
bỗng dâng lên một nỗi bi thương: "Quân đoàn bất bại trong truyền thuyết, rốt cuộc tại sao các người lại biến mất trong
lịch sử? Giờ đây, các người đang ở nơi đâu?"
Trác Mộc Cường Ba chợt liên tưởng đến người Kukuer, không kìm được buột miệng hỏi:
"Thượng sư nói cho tôi biết chiến ngao tuyệt đồi không bao giờ sủa, chuyện này và việc tất cả chó của người Kukuer nuôi
đều không sủa, có liên hệ gì với nhau thế?" Lúc này đầu óc Trác Mộc Cường Ba đã bấn loại, những tập tục giống tập tục
của người Tạng một cách đáng ngạc nhiên, chiến ngao không bao giờ sủagã dường như đã cảm nhận được gì đó, nhưng lại
thiếu mất một chút, chỉ một chút nữa thôi, là có thể liên hệ mọi chuyện này với nhau được rồi.
Lạt ma Á La nhìn Trác Mộc Cường Ba, chậm rãi thong thả nói: "Có lẽ là vậy, tôi chẳng qua chỉ nghe Cường Ba thiếu gia
nói chó ở đó đều không sủa mà nhất thời cảm thán thôi. Phải rồi, để tôi kể cho Cường Ba thiếu gia chuyện chúng tôi gặp
phải nhé, có lẽ nghe xong, lại tìm ra được nơi cô Mẫn Mẫn có thể tới cũng không chừng." Lạt ma Á La đổi chủ đề, trong
lòng thầm nhủ: "Đúng là làm khó cho cậu rồi, Cường Ba thiếu gia, rồi sau này cậu sẽ hiểu ý nghĩa của chuyến đi này của
chúng ta lớn tới nhường nào. Từ lúc bị nước lũ cuống lạc khỏi đội ngũ, tôi cứ ngỡ phải một mình đi thăm dò nơi kìa cơ,
không ngờ lại gặp được cậu, thật đúng là ý trời, ý Trời mà."
"Á La Thượng Sư, ngài sao vậy?" Trác Mộc Cường Ba thấy lạt ma Á La nghĩ ngợi đến bần thần, không nhịn được lên tiếng
hỏi, những điều gã muốn hỏi quả thực quá nhiều, ngược lại thành ra không biết bắt đầu hỏi từ đầu. Lạt ma Á La ngẩng đầu
lên: "Ừm, không có gì, tôi chỉ không ngờ các cậu lại gặp phải nhiều chuyện như vậy, dọc đường bao nhiêu gian khổ khó
khăn, nhưng các anh đều đã vượt qua được hết." Đồng thời, trong lòng ông cũng nghĩ: "Là kẻ nào đã xúi bẩy quân du kích
ngăn cản bọn Cường Ba thiếu gia? Chẳng lẽ bọn chúng muốn tranh thủ thời gian để giở trò? Những kẻ ấy, liệu có phải
chính là những kẻ người kia nói tới không? Thật không ngờ, chỉ là trùng hợp thôi? hay là. Không biết bọn họ đã tìm thấy
nơi đó chưa, ừm, thôi bỏ đi, đều đã tới đấy rồi, bất kể làm sao cũng phải đi xem thử một lần. Bạch thành, toà thành
được ánh sáng toả chiếu phong ấn bên trong Bạch thành, hôm nay cố nhân ở quê nhà tới thăm ngươi đây!"
Nghe lạt ma Á La nhắc tới Mẫn Mẫn, tâm tư Trác Mộc Cường Ba đang ở chỗ người Kukuer lại thu về, cuống quýt hỏi: "Phải
rồi, Á La thượng sư, ngài mau kể đi, tại sao ngài lại ở đây? Tại sao lại chia tách với mấy người giáo sư Phương Tân?
Những ký hiệu ở trận đồ đá kia có phải do ngài để lại không?"
"Ừm", Lạt ma Á La xắp xếp các sự kiện trong đầu, điềm đạm kể lướt qua một lượt chuyện của nhóm ông, tính ra thì đơn
giản hơn bọn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều. Bọn họ xuất phát trước một ngày, nhưng mới đầu không đi đường thuỷ, mà đi
trên bộ, họ thuê một đoàn ngựa thồ, gần chục con ngựa, bảy tám người cùng đi. Trong rừng cũng gặp phải quân du kích,
nhưng đại khái đều có thể thông qua an toàn, về sau gặp bọn buôn ma tuý, trong lúc hỗn loạn đã chết mất hai người tuỳ
tùng. Cả đoàn lại tiếp tục đi sâu nữa vào trong, khi tới rừng Than Thở, một người trong đám họ thuê cương quyết không
chịu đi tiếp nữa, mãi tới khi nghe anh ta kể chuyện về rừng Than Thở, lúc ấy họ mới biết la bàn đã chỉ sai hướng. Họ
định điều chỉnh phương hướng thì lại gặp phải bộ lạc ăn thịt người, buộc phải chạy sâu hơn nữa vào rừng, lại còn để mất
năm con ngựa. Trong rừng Than Thở, ngựa bị ăn dần từng con từng con một, hoặc bị dã thú kéo cả con đi, năm người đang
cuống cuồng tìm cách ra khỏi rừng Than Thở thì trời bắt đầu mưa, cả bọn trôi dạt trên thuyền hơi cứu sinh hai ngày
liền, về sau khi lũ quét hất tung cả thuyền, người bên trên bị cuốn đi mỗi người một hướng. Lạt ma Á La cuối cùng nói:
"Nửa đoạn đường đầu tiên các cậu gay go hơn chúng tôi, đoạn ở giữa mọi người gần như nhau, đoạn cuối cùng này thì cậu
may mắn hơn tôi một chút đấy."
"May mắn hơn ngài!?!’ Trác Mộc Cường Ba không thể nào hiểu nổi "may mắn" mà lạt ma Á La nói rốt cuộc là ý tứ gì, gã kể
lại một lượt chuyện vừa tới vùng đất cấm này đã gặp phải hai nhóm ăn thịt người, rồi lại gặp phải quái thú trong khu
rừng tối tăm đáng sợ này nữa, sau đó làu bàu chất vấn, "Thế còn gọi là may mắn ư?"
Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười: "Cậu mới ở trong khu rừng âm u này có một đêm, còn tôi đã ở đây ba ngày rồi."
Thật không sao hình dung nổi cảm giác kinh hoàng của Trác Mộc Cường Ba lúc này, khó mà tưởng tượng được, vị lạt ma tuổi
tác đã cao nhìn bề ngoài lại gầy gò như vậy đã trải qua ba ngày ở đây như thế nào, không ngờ một câu tiếp sau của lạt
la Á La càng khiến gã như nghe chuyện cổ tích. Lạt ma Á La nói: "Đã ba ngày nay không ăn thứ gì rồi, vì vậy, tôi buộc
phải ăn chút gì đó để duy trì thể lực." Quai hàm Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì trật khớp, miệng há hốc không ngậm
lại được, chỉ ngây ngây nghe lạt ma Á La nói tiếp: "Khu rừng này rất lớn, hơn nữa về đêm là hơi nước sẽ hình thành
sương mù, rất dễ mất phương hướng, tôi từ phía Tây Bắc, từ đầu tới giờ vẫn nhắm hướng Đông Nam tiến lên, ước chừng hôm
nay là có thể ra khỏi đây được rồi."
Trác Mộc Cường Ba bỗng sực nhớ ra điều gì đó, ngây ngẩn hỏi: "Thượng sư, ba ngày nay ngài không ngủ chút nào sao?"
Lạt ma Á La đáp: "Ở đây làm sao mà ngủ được, chỉ cần cậu nhắm mắt lại là lập tức thành món ăn trong bụng sinh vật khác
ngay rồi."
Hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại càng trợn to hơn nữa, ở trong khu rừng này chỉ ba tiếng đồng hồ gã đã nghĩ là cực hạn của
khảo nghiệm rồi, nếu ở đây ba ngày mà vẫn chưa chết, thì chắc cũng phát điên lên rồi, lại còn không ngủ không ăn gì
nữa. Gã bắt đầu hoài nghi, vị lạt ma Á La, ông ta có phải là con người hay không? lạt ma Á La lại tiếp lời: "Tôi biết
cậu đang nghĩ gì, đừng kinh ngạc, trong thiền tông chúng tôi có rất nhiều phương pháp rèn luyện ý chí, cũng có rất
nhiều cao tăng từng tiến hành khổ tu như tôi vậy, chắc cậu cũng biết đấy, người ta gọi phương pháp đó là Mật tu."
Trác Mộc Cường Ba biết, Mật tu của Tạng truyền Phật giáo là thứ pháp môn khiêu chiến với cực hạn chịu đựng của cơ thể
người, nghe nói trong kinh sách có ghi chép rất nhiều phương pháp tu hành thách thức sức chịu đựng của cơ thể như nhịn
ăn, nín thở, nằm trên chông nhọn. Các nhà sư từng tiến hành Mật tu đều có ý chí và khả năng chịu đựng hơn người thường
bội phần, chẳng hạn chui vào quan tài chôn xuống lòng đất, chỉ dùng một cái ống mềm để thông khí với bên ngoài, cả mấy
tháng trời không uống một giọt nước mà họ vẫn sống trở ra, còn người bình thường chỉ cần thiếu nước ba ngày là đã cầm
chắc cái chết rồi. Còn có người để mình trần ngồi trên đỉnh núi tuyết, mỗi lần đều ngồi cả mấy ngày, kháng cự lại cả
cơn đói khác khi tuyệt thực lẫn gió lạnh cắt da cắt thịt.
Lạt ma Á La nói: "Nếu không phải có đợt hành động này, tôi vốn đã chuẩn bị xong để cùng các bậc tiền bối tuyệt ngũ cốc,
tu Thiên Nhật Hành rồi. Chà, cả chuyện này mà cậu cũng biết, thật không hổ danh là đời sau của trí giả!" lạt ma Á La
nhìn vẻ mặt kinh hoảng của Trác Mộc Cường Ba, tán thưởng một câu. Thiên Nhật Hành, từ hồi còn rất nhỏ Trác Mộc Cường Ba
đã nghe cha gã nói tới pháp môn tu luyện này rồi, hồi đó gã còn cho rằng đem chuyện này thêm mắm dặm muối thành chuyện
ma quỷ địa ngục đi doạ trẻ con cũng hay ra phết, chỉ là không ngờ thực sự có người thực hiện được. Tuyệt ngũ cốc, chính
là đoạn tuyệt ngũ cốc hoa màu, không ăn một chút gì, sau đó người tu luyện sẽ chìm vào trạng thái ngủ đông, trừ phi có
tiếng động cực lớn, bằng không họ sẽ không tỉnh lại. Cứ như vậy ngày lại qua ngày, năm lại qua năm, họ chỉ tiêu hao cơ
thể để duy trì sinh mạng, cuối cùng tứ chi và thậm chí cả lồng ngực đều biến thành cốt khô, nhưng người thì vẫn sống.
Các nhà sư coi đây là niết bàn, cảnh giới cao nhất chính là tu thành nhục thân Phật đà, cuối cùng người vẫn phải chết,
nhưng xương cốt ại giữ được mãi không thối rữa, hoá thân thành Bồ Tát, được hậu thế thờ cúng kính ngưỡng.
Lạt ma Á La đã thấy tương đối no, liền đứng dậy nói: "Được rồi, không nói những chuyện này nữa, người để ký hiệu lại
chỗ trận đồ bằng đá không phải tôi, có thể là Ngải Lực Khắc hoặc giáo sư Phương Tân cũng nên, chúng ta tiếp tục đi về
phía Đông Nam. Khu rừng này vốn gọi là rừng Mãng Xà, đường kính chừng bốn năm chục cây số, bên trong có hai loài, bảy
giống, mười hai loại á hình, tổng cộng một ngàn tới một ngàn năm trăm con trăn, cá thể đã hoàn toàn trưởng thành khoảng
hơn ba trăm, ngoài ra còn có rất nhiều cá sấu, vì vậy mỗi bước đi đều phải hết sức cẩn thận đấy."
Trác Mộc Cường Ba đã hơi quen với những phát ngôn chấn động của lạt ma Á La, nhưng vẫn không kìm được mà lên tiếng hỏi:
"Thượng sư, sao ngài biết rõ vậy?"
Lạt ma Á La bước tới trước một ngôi mộ mới lập, chắp tay bái lễ: "Là người này nói."
Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên thốt: "Đó là."
Lạt ma Á La đáp: "Thậm chí tôi còn không biết tên anh ta nữa, mấy tiếng trước khi tôi phát hiện ra anh ta trong rừng
thì người này đã thoi thóp sắp chết rồi. Chuyện chôn dao trên đường đi của trăn cũng là anh ta chỉ cho tôi làm đấy, vừa
nãy tôi không ở chỗ đó, chính là vì đang ở đây tưởng niệm người bạn mới quen này. Anh ta có nói cho tối biết một số
chuyện liên quan tới rừng Mãng Xà và bí mật ẩn chứa bên trong nó." Lạt ma Á La nói tới đây, liền cố ý đưa mắt liếc nhìn
Trác Mộc Cường Ba một cái. Trác Mộc Cường Ba chỉ lặng lẽ lắng nghe, trong mắt không có chút hiếu kỳ hay mừng rỡ, gã lúc
này chỉ muốn làm sao nhanh nhanh ra khỏi khu rừng này mà thôi.
Lạt ma Á La lại nói: "Người đó cho tôi biết, anh ta vốn là một kẻ trộm mộ, họ có một nhóm, chuyên đi khắp thế giới đào
trộm mộ cổ. Mấy năm trước, nhóm trưởng triệu tập họ lại, nói rằng trong khu rừng nguyên sinh giữa biên giới ba nước
này, ẩn chứa một bí mật khổng lồ, ở đây có một toà thành, các bộ lạc ăn thịt người sống chung quanh gọi toà thành đó là
Thành Phố Trắng."
"Thành Phố Trắng" Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, bài ca lịch sử bộ lạc Kukuer bỗng vand lên trong đầu, cơ hồ không
phải gã nhớ lại, mà là hồi ức tự dưng dâng lên trong óc gã: "A, thành phố thần thánh màu trắng, ánh sáng trí tuệ bao
phủ người, tất cả sinh mạng đều quay về đây. Mỗi vuông đất, đều thấm đẫm máu và nước mắt của tổ tiên, họ mang linh hồn
và tính mạng của mình, đổi lấy hạnh phúc và hoà bình."
Lạt ma Á La tiếp tục: "Là nền văn minh đã biến mất từ ngàn năm trước, các bộ lạc ăn thịt người hình như là người bảo vệ
của thành đó, trong thời gian quá lâu, họ đã quên mất đó là thành phố của ai, tại sao lại xây dựng, còn bọn họ tại sao
lại phải xanh giữ nó. Đám trộm mộ ấy cũng tiến vào rừng, giống như cậu với tôi, hay tất cả những người khác, trải qua
vố số gian khổ, bất cứ lúc nào cũng cận kề bên cái chết. Theo chỉ thị của đội trưởng, họ phải tìm một số thứ ở các bộ
lạc sống trong rừng, nghe đâu là chìa khoá để mở cửa, mà không chỉ có một chiếc. Theo như anh ta được biết, ở khu rừng
gần Thành Phố Trắng này nhất có ba bộ lạc ăn thịt người, nhưng năm đó thì bọn họ không hề biết điều này. Khi anh ta
trộm chìa khoá ở chỗ người Kaji, bất cẩn rơi vào cạm bẫy. Đó là một vũng lầy thoạt nhìn không khác gì đất bùn bình
thường người Kaji lại nguỵ trang rất tốt trên đó, đồng thời đặt gian nhà chứa chìa khoá lên trên vũng lầy. Anh ta và
hai người khác trong bọn cùng rơi vào đó, làm kinh động cả bộ lạc, vậy là đồng bọn đành bỏ bọn họ lại. Khi người đó ngỡ
mình sắp chết tới nơi, người Kaji lại cứu anh ta lên, từ đó anh ta liền ở lại làng của họ làm nô lệ, họ bắt anh ta đeo
xích sắt, nhưng không ăn thịt. Người này phải sống kiếp nô lệ mất mấy năm, anh ta từ bên ngoài đi vào đây, thế nên cũng
biết rõ, với năng lực của mình, anh ta không còn cách nào thoát khỏi đây được, chỉ còn cách an tâm mà tiếp tục làm nô
lệ thôi."
Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Tại sao bộ lạc ăn thịt người đó không làm thịt anh ta?"
Lạt ma Á La đáp:"Theo như anh ta nói, bộ tộc Kaji đó thực ra không phải là bộ lạc ăn thịt người trọn vẹn, bọn họ chỉ ăn
những người bạn thân nhất từ những bộ tộc khác, ai bị họ ăn thịt cũng nên cảm thấy vinh hạnh, bởi họ đã coi người đó là
bạn. Đối với tù binh, họ có cách trừng phạt tàn nhẫn hơn nhiều chứ không đơn giản là ăn thịt thôi đâu. Lúc trước người
này đã dùng gỗ vụn làm mấy món đồ chơi có hơi hướng hiện đại, được người Kaji cho là bảo vật. Vì vậy, mới gần đây, anh
ta bị người Mocahi dùng vũ lực cướp đi, ngay tối hôm qua thôi, người Mocahi còn đang chuẩn bị làm thịt anh ta nữa đó.
Người Kaji muốn cướp anh ta về, nhưng thất bại. Trong lúc chiến đấu, anh ta đã bị thương, lại biết chắc người Mocahi sẽ
không tha cho mình, liền liều chết chạy vào rừng Mãng Xà này. Anh ta bảo, bị trăn ăn thịt còn hơn bị bọn người Mocahi
đó xơi tái, vì trước khi ăn thịt người nào, bọn họ luôn khiến kẻ bất hạnh ấy chịu đủ kiểu hành hạ, và cho rằng người
nào chết trong đau đớn đã mang hết oán hận và đau đớn tiết ra ngoài cả rồi, ăn vào mới an toàn. Sau đó thì anh ta gặp
tôi."
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại tình cảnh tối hôm trước, không biết người này là ai trong số năm kẻ xấu số kia. Lạt ma Á La
tiếp lời: "Rừng Mãng Xà này vì có rất nhiều trăn khổng lồ Nam Mỹ, nên được các bộ lạc ăn thịt người coi là khi cấm, xưa
nay đều tránh xa. Người này đã ở đây mấy năm, anh ta kể rằng mình phát hiện ra nghi thức ăn thịt người của các bộ lạc
này vô cùng cổ quái, hoàn toàn khác hẳn với lý giải của người thường. Phương thức ăn thịt người của ba bộ lạc sống
trong vùng rừng này đều không giống nhau. Người Mocahi và người Lapimi đều coi việc ăn thịt người như một nghi thức
thần thánh, bất kể là khiến người ta chết trong đau kho6gn hay im lìm không hay biết, họ đều bắt đầu hết sức long
trọng, cả bộ tộc đều phải tham gia nghi thức này, chứ không phải kiểu coi con người như một loài súc sinh để ăn thịt
như xưa nay người đời vẫn tưởng tượng. Anh ta cho rằng, nghi thức này có ý nghĩa đặc biệt riêng, nhưng rất đáng tiếc,
chính anh ta cũng không đưa ra được kết luận gì.»
Trác Mộc Cường Ba nghe lạt ma Á La cứ gọi người đàn ông kia là anh ta, anh ta mãi, mới hỏi: "Thượng sư, anh ta không
cho ngài biết tên à?"
Lạt ma Á La lắc đầu, đoạn nói: "Dù anh ta kín miệng như bưng về thân thế mình, nhưng từ cung cách nói năng, tôi có thể
cảm nhận được, bọn họ không phải lũ trộm mộ bình thường, mỗi một con người trong nhóm đó, trong xã hội đều có địa vị
rất cao. Còn việc phải trộm mộ xong có của cải mới có địa vị cao như thế hay từ đầu đã có địa vị cao rồi nhưng vẫn
thích trộm mộ thì tôi không biết. Ngoài ra, người kia dường như đánh giá đội trưởng của mình rất cao, qua lời nói cũng
toát lên vẻ sùng bái ngưỡng mộ."
Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, thầm nhủ: "Nếu đã có địa vị rất cao trong xã hội rồi, tại sao còn đi làm một việc
ti tiện như là trộm mộ chứ? Điên rồi chắc? Đến cuối cùng chẳng phải là chết giữa rừng hoang không người biết đến hay
sao." Đột nhiên, một ý nghĩ loé lên, ý nghĩ đáng sợ ấy tràn ngập khắp bên trong đại não: "Vậy còn mình thì sao? Mình
vậy mà lại giống đám trộm mộ kia ư? Không! Mình cố gắng phấn đấu vì lý tưởng, tất cả những thứ mình bỏ ra, đều là cần
thiết, đều có giá trị cả! Nhưng mà" Để có được giúp đỡ và chi viện, bọn gã đã để mục tiêu đơn giản là tìm chó ngao
thành tiện đường tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, hoặc có thể nói, trong nhóm của gã giờ đây, mục đích chủ yếu của các
thành viên đã biến thành tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu rồi, vậy thì có khác gì bọn đào mộ trộm không chứ. Trác Mộc Cường
Ba không thể thanh thản, lầm lũi cúi gằm mặt xuống. "Vậy bây giờ chúng ta nên làm gì? Đến Thành Phố Trắng ư?" Vừa nãy
khi lạt ma Á La nhắc đến nơi này, Trác Mộc Cường Ba nhận ra trong ánh mắt ông có gì đó mà gã không sao lý giải nổi,
chiếu lý mà nói thì một cao tăng mật tu cách biệt với thế gian như ông, đáng lẽ ra phải hoàn toàn không có quan hệ gì
với một thành phố cổ hoang phế trong rừng rậm nguyên sinh Nam Mỹ mới đúng, rốt cuộc lạt ma Á La có gì bất ổn đây? Thậm
chí Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ: "Lẽ nào lạt ma Á La cũng từng là thành viên của tổ chức trộm mộ ấy?"
"Điều chúng ta cần làm trước mắt, chính là rời khỏi rừng Mãng Xà, đồng thời tránh xa các bộ lạc ăn thịt người. Còn
Thành Phố Trắng hả, nếu găp được, cũng có thể tới tham quan một phen, Phật đã dạy, vạn sự tùy duyên mà." Lạt ma Á La
nói vậy, trong lòng lại vui mừng không xiết: Cường Ba thiếu gia, cuối cùng cậu cũng bắt đầu quan tâm đến thành phố
hoang phế đó rồi sao? Yên tâm đi, tôi nhất định sẽ dẫn cậu tới đó, cậu là hy vọng Hoạt Phật đã chỉ ra cho chúng tôi,
tin rằng cậu sẽ không làm chúng tôi thất vọng."
Hai người đi về phía trước một đoạn, vừa đi vừa thảo luận hướng đi của giáo sư Phương Tân và Trương Lập, nhưng cũng chỉ
là đoán mò, vì cả hai đều biết tỷ lệ gặp lại nhau trong khu rừng này là rất nhỏ. Chừng một tiếng đồng hồ sau, ánh trăng
trên cao đã dần trở nên ảm đạm, xem ra trời cũng sắp sáng đến nơi, khoảng thời gian tối tăm nhất trước bình minh kia
cũng sắp tới. Bỗng nhiên phía trước có tiếng gió nổi lên, trong bóng tối một vật trông như cái cột đèn đang vặn vẹo lăn
lộn, hai người tự hiểu, lại gặp phải trăn khổng lồ nữa rồi, nhìn bóng đen kia phán đoán, có lẽ con trăn này còn to hơn
những con họ gặp trước đó nữa. Lúc này nó đang ra sức vặn vẹo, quật rầm rầm vào thân cây, rõ ràng là đang vô cùng đau
đớn. Trác Mộc Cường Ba thấy tình huống này hơi giống với con trăn vừa nãy, liền hỏi lạt ma Á La: "Có phải bị dao rạch
bụng không vậy?"