Merkin cười khổ nói: "Đây… đây thật sự là trí tuệ của người Tạng cổ ư? Vi sinh vật? Ống xi phông?
Hiệu ứng vỏ trứng? Thật không thể nào tin nổi. Vậy giờ tôi nhét con mắt bạc này vào đấy nhé?" Soares gật đầu, cả hai
đều nhìn chòng chọc vào tay Merkin, nhìn bàn tay đưa con mắt bạc to tướng vào lỗ, xoay chuyển, nhích động con mắt, bịt
kín lối nước chảy ra, sau đó thời gian chìm vào trạng thái tĩnh lặng dài dằng dặc, không có bất cứ âm thanh gì, đợi
chờ, chờ đợi…
Đường lên tầng phía trên đều là thang treo dựng đứng, cũng được đục khoét trong lòng đường ống tròn, nhưng họ đi mãi
một lúc lâu mà không phát hiện hay chạm phải bất cứ cơ quan bẫy rập nào.
Ba người lại lên thêm tầng nữa, đến một gian thạch thất lớn hơn những gian bên dưới một chút, Trác Mộc Cường Ba định
dừng lại đây nghỉ ngơi một chút để chăm sóc cho Đa Cát. Từ đầu tới giờ, cứ đi chừng một hai trăm mét lại gặp một gian
thạch thất như thế này, có lớn có nhỏ, diện tích từ khoảng năm sáu chục mét vuông đến bốn năm trăm mét vuông, vách
tường bên trong không có thứ giống rễ cây kia, cũng không có trang trí gì, cùng lắm thì ở mấy gian lớn hơn có vài cái
cột chống. Ba người đặt nguồn sáng ở chính giữa thạch thất, theo lệ kiểm tra từng góc một xem có cơ quan cạm bẫy gì
không, sau đó mới ngồi xuống, một người dựa vào một cây trụ đá nghỉ ngơi. Trác Mộc Cường Ba lại thử dùng đồng hồ nguyên
tử liên lạc với nhóm giáo sư Phương Tân, nhưng vẫn thất bại. Dùng xong chút thực phẩm ăn liền, Đa Cát quay sang hỏi lạt
ma Á La: "Tại sao chúng ta đi lâu như vậy rồi mà không gặp phải cơ quan gì vậy? Có khi nào những chữ trên vách đá ấy là
để gạt người ta không?"
Lạt ma Á La nói: "Phải rồi, điểm này thật đúng là hết sức kỳ quái, nhưng hàng chữ khắc đó không phải để gạt người mới
đúng, vì đã đến nơi này rồi thì chẳng cần phải gạt ai hết. Hơn nữa, ở đây chắc chắn là có cơ quan."
Trác Mộc Cường Ba cũng gật đầu nói: "Ừm, mỗi gian thạch thất này đều có rất nhiều nơi thừa thãi, những chỗ ấy chắc là
cơ quan cả, chỉ không hiểu tại sao lại đều không được khởi động mà thôi."
Đa Cát nói: "Ối chà, nhiều thạch thất như thế, chẳng lẽ đều có cơ quan hết cả sao? Vậy chúng ta nên mau mau rời khỏi
chỗ này thì hơn. Nhưng mà trong vách núi có nhiều đường như thế, chúng ta làm sao mà tìm được lối thoát ra đây. Rốt
cuộc là phải đi bao nhiêu lâu nữa mới đến được lối ra?"
Lạt mà Á La nói: "Nếu khoảng cách thẳng đứng là một nghìn mét, nói thế nào thì cũng phải leo mất nửa ngày. Cường Ba
thiếu gia, theo cậu thì chúng ta đã đi được ngần nào rồi?"
Trác Mộc Cường Ba đáp: "Chúng ta bám thang treo leo lên tổng cộng mười ba lần, mỗi lần cao chừng bốn năm chục mét, chắc
là đã đi được một nửa quãng đường ấy rồi."
Lạt ma Á La gật đầu ba lô lên nói: "Đa Cát, nghỉ ngơi sao rồi? Chúng ta tiếp tục thôi."
***
Lúc này, Merkin và Soares cũng đang đi trong một lòng hang bán chằng chịt những thứ giống như rễ cây leo. Kiến trúc lầu
điện ba tầng ở lối vào nhìn tổng thể rất giống điện đường của Phật giáo, chia thành các loại điện Phật, điện Bồ Tát,
điện Kim Cương, bên trong thờ rất nhiều tượng Phật ba mắt đã bị phá nát, ngoài ra không còn thứ gì khác nữa. Ngoài chỗ
cửa ra xương cốt chất thành núi, càng đi vào bên trong thì lại càng ít hơn, nhưng vẫn rải kín cả sàn nhà. Bọn y đi hết
ba tầng điện, cuối cùng tìm được một lối đi xuống dưới ở đại điện Kim Đỉnh, đi hết lối đi dốc xuống ấy là đến được
đường hầm đầy những rễ cây này. Sau khi đi qua không biết bao nhiêu chỗ ngoặt, con đường cứ càng đi thì lại càng đâm
sâu xuống phía dưới, Soares tinh ý nhận thấy trên vách hang chằng chịt rễ cây, nhưng thật lạ lùng là không hề có một bộ
xương nào.
Càng xuống sâu, không khí trong hang dần trở nên ẩm ướt, Soares nhìn bộ điều khiển trên tay, đột nhiên bấm dừng hình
ảnh, đồng thời cả y cũng đứng lại luôn, chăm chú hít hít ngửi ngửi trong không khí, Merkin hỏi: "Sao vậy?"
Soares đáp: "Phía trước hình như có gì đó, môi trường bắt đầu ẩm thấp rồi, chắc là có động vật gì đấy, phải cẩn thận,
anh nhìn đây mà xem."
Chỉ nhìn thấy giữa nền xanh của màn hình bộ điều khiển hiện lên một điểm sáng trắng, đây là hình ảnh nhìn đêm do con
chuột thí nghiệm của Soares truyền về. Soares điều chỉnh một chút trên bộ điều khiển, điểm trắng đó từ góc này màn hình
chuyển sang góc bên kia, chất lượng hình ảnh không cao hơn mấy, nhưng đã có thể lờ mờ nhận ra đó không phải là một vật
chết. Soares dừng hình ảnh, chỉnh zoom gần hơn, chỉ thấy điểm sáng màu trắng ấy tựa như một đoạn thân thể của loài sinh
vật nào đấy có chi dạng đốt, nhìn trên màn ảnh thì nhỏ hơn con chuột thí nghiệm nhiều. Soares nói: "Với môi trường ẩm
thấp thì động vật loại nhỏ chắc chắn không chỉ có một hai con mà thôi đâu, phải đề phòng những thứ có độc đấy."
Merkin gật đầu, ra lệnh cho Max báo lại thông tin này với những tên đi phía sau: "Ừm, bảo chúng nó cẩn thận một
chút."
Đi khoảng hơn mười phút nữa, mặt đất càng thêm ẩm ướt, những rễ cây chằng chịt xung quanh bắt đầu thay đổi, trở nên to
hơn, mỗi sợi rễ cây ước chừng phải bằng đầu ngón tay út, nhìn tựa như một đám sâu thịt nung núc quấn riết vào với nhau.
Soares vừa thử đưa tay chạm vào một cái đã tức khắc rụt lại như chạm phải điện, không khỏi rùng mình kinh hãi. Đám "rễ
cây" phình to hơn mềm hơn ấy nhung nhúc cựa quậy tựa như có sự sống vậy, vừa bị ngón tay Soares chạm vào một cái, tức
khắc phản ứng đẩy bật lại, chừng như không muốn bị động vào.
"Sao thế? Những thứ này có gì cổ quái hả?" Merkin để ý thấy thần sắc Soares bất ổn, liền cất tiếng hỏi, đoạn đưa tay sờ
thử một cái, cũng giật bắn mình kinh hãi: "Đây rốt cuộc là cái gì vậy?"
Soares trầm ngâm đáp: "Không biết, tôi chưa thấy những thứ này bao giờ, hình như cũng không nằm trong phạm vi nghiên
cứu của tôi. Nhìn những vật thể khô cứng bên ngoài, tôi cho rằng chúng là thực vật, nhưng giờ nhìn lại, hình như chúng
là động vật rồi, có vẻ là động vật cấp thấp, chắc không có khả năng tấn công đâu, chuột thí nghiệm có thể đi qua đây an
toàn mà."
Merkin gật đầu: "Giờ không có thời gian để ý đến chúng đâu, tiếp tục đi thôi, tóm lại cứ cẩn thận một chút là được.
Phải rồi, chỗ chúng ta vừa đi qua ấy, có cơ quan gì không?"
Soares đáp: "Ừm, tôi cũng phát hiện ra rồi, nhưng những cơ quan ấy hình như đều đang ở trong trạng thái chờ khởi động,
thêm một điểm nữa là xung quanh lại không thấy có thiết bị kích hoạt. Tôi đoán chắc đâu đó có chốt tổng khởi động toàn
bộ rồi. Mà nói chung cơ quan không được khởi động cũng là một điều may mắn đó."
Lát sau, đoàn của Merkin đến một gian thạch thất lớn hình vuông, ở giữa có ba cây trụ đá xếp thành hình chữ phẩm nổi
liền trần và sàn thạch thất, trên vách tường và cột đá có khoét những lỗ lớn hơn đầu ngón tay cái một chút, số lượng
cực nhiều. Nước thấm ra từ cả vách tường lẫn các lỗ nhỏ đó, làm cả gian thạch thất ẩm ướt dầm dề. Soares nói: "Cẩn thận
đấy, đây chính là chỗ vừa phát hiện ra có vật thể chuyển động, những lỗ nhỏ này có lẽ chính là sào huyệt của chúng,
nhanh nhanh rời khỏi đây thì hơn."
Lời còn chưa dứt, trong một lỗ nhỏ đột nhiên có con gì đấy chui ra. Động vật này toàn thân trắng óng ánh, vung vẩy cặp
càng to tướng cùng cái đuôi móc câu cong cong, thì ra chính là loài bọ cạp trắng mà bọn y đã gặp phải ở chỗ Cơ Quan
Phật! Đã có con đầu tiên, rất nhanh sau đó liền có con thứ hai, thứ ba… Chỉ trong chớp mắt, cả gian thạch thất đã phủ
kín một lớp bọ cạp trắng, số lượng quyết không ít hơn bên trong tượng Cơ Quan Phật là bao. Sống trong bóng tối hoàn
toàn một thời gian quá lâu, lũ bọ cạp trắng này đều đã mất khả năng nhìn, nhưng dường như lại cảm nhận dược điều gì đó,
bọn Merkin vừa xuất hiện trong thạch thất, cả đàn liền nhung nhúc bò ra khỏi ổ, bao vây cả đám người vào giữa.
Soares cẩn thận đi phía trước, đồng thời lên tiếng động viên tinh thần những người đi phía sau: "Tôi đã nghiên cứu bọn
bọ cạp trắng này rồi, gai nhọn ở đuôi chúng không có độc, nhưng dường như có thể ngăn đông máu, sau khi bị đốt thì vết
thương sẽ chảy máu không ngừng, tốt nhất là tránh đừng chạm vào. Bọn này không có mắt, vì vậy chúng không nhìn thấy gì
đâu, không cần phải quá căng thẳng, cẩn thận đừng để mặt đất rung động, chắc là có thể qua được thôi."
Nhưng lũ bọ cạp trắng ấy dường như không định bỏ qua cho những kẻ xâm nhập, vì đột nhiên có mấy chục con bọ cạp trắng
hùng hục nhảy vụt lên, bổ về phía Soares. Y vội cầm cây đuốc trong tay vung lên, hất văng chúng xuống rồi giơ chân gí
mạnh, nội tạng huyết dịch của lũ bọ cạp bắn tóe ra, gặp không khí liền nhanh chóng biến thành màu xanh lục. Song những
người khác trong nhóm không được may mắn như vậy, một tên đột nhiên vứt khẩu súng trên tay xuống đấy, ôm đầu kêu toáng
lên ầm ĩ, mấy con bọ cạp trắng đã kẹp chặt trên da hắn, ghim sau mũi gai ở đuôi vào cơ thể, chẳng mấy chốc đã có vô số
con khác bao kín khắp người hắn. Tên này lăn lộn dưới đấy, nhưng những tên còn lại cũng bận cuống cuồng đối phó với bọn
bọ cạp phía trước mình, căn bản không thể giải vây cho hắn được. Bỗng nhiên, một tên khác rú lên ầm ĩ: "Nhìn kìa! Bọn
bọ cạp này! Chúng nó… chúng nó hút máu người đấy!"
Trong cơn hoảng loạn, Merkin ngoảnh đầu lại nhìn, thấy tên thuộc hạ kia đã bị bọ cạp trắng phủ kín, chỉ còn là một hình
người trắng toát. Lũ bọ cạp cắm sâu cái kim ở đuôi vào cơ thể nạn nhân, từng dòng từng dòng máu đỏ chảy vào cơ thể
chúng, tựa như những giọt mực đỏ nhỏ xuống làn nước trong, bắt đầu cuồn cuộn lan ra. Trong khoảng khắc, tất cả những
người chứng kiến cảnh ấy cũng cảm thấy dâng lên một nỗi sợ không biết diễn tả thế nào. Merkin vung cây đuốc trên tay
lên lớn tiếng hạ lệnh: "Chạy mau, chạy mau, đừng nhùng nhằng với chúng nữa, mau rời khỏi đây!"
Ba người bị bỏ lại trong thạch thất, những kẻ còn lại hốt hoảng đào tẩu. Sau lưng bọn y, bọ cạp trắng vẫn tràn ra như
nước lũ, đuổi sát nút không chịu buông tha. Merkin nói: "Chuyện quái gì vậy? Bọn chúng đuổi theo kìa! Rõ ràng là bọn
chúng không nhìn thấy gì, sao lại đuổi theo chúng ta được vậy?"
Soares lao vùn vụt phía trước, ngoái đầu nhìn, không ngờ đám bọ cạp trắng nhỏ bé ấy lại có tốc độ kinh người đến thế,
không có vẻ gì là bị tụt lại phía sau. Y đột nhiên vỗ mạnh tay một cái, sực hiểu ra: "A, chó chết thật, chất dịch màu
đỏ ở chỗ pho tượng nghìn tay ấy là thuốc dụ côn trùng! Chó má, từ một nghìn năm trước bọn giáo đồ của cái tôn giáo này
đã biết sử dụng thuốc dụ côn trùng rồi à? Đây.. rốt cuộc… rốt cuộc là chuyện gì vậy!"
Merkin trầm ngâm im lặng. y cũng từng nghe nói đến thứ thuốc dụ côn trùng này. Đó chính là loại thuốc có thể kích thích
sự thèm ăn hoặc ham muốn tấn công cắn xé của côn trùng, có thể là chất lỏng, cũng có thể ở dạng rắn, dùng mùi vị, màu
sắc, sóng chấn động hoặc cách gì đó khác để thông báo cho một loại con trùng nào đó tụ tập về một chỗ. Ví dụ đơn giản
nhất chính là sức hút mạnh mẽ của mật ong đối với ong mật, ngoài ra còn có chất pheromone do ong bắp cày tiết ra tín
hiệu rất rõ ràng để báo động tập trung tấn công. Soares có thể thao túng và khống chế các loại côn trùng như nhện,
kiến, ong mật… để đạt được mục đích mong muốn cũng chính là nhờ biết lợi dụng thứ này. Có những loại thuốc dụ côn trùng
sau khi dính vào cơ thể liền chuyển thành dạng vật chất bay hơi chậm, cá biệt có loại thậm chí đến mấy tháng sau vẫn
còn công hiệu, hơn nữa còn rất khó rửa sạch. Tuy nhiên không thể ngờ được thứ chất lỏng màu đỏ bọn y dính phải ở chỗ
tượng Phật nghìn tay ấy lại chính là một loại trùng dầu khiến lũ bọ cạp trắng này nổi điên lên mà tấn công dữ dội.
Phía trước xuất hiện đường rẽ, Merkin không còn suy nghĩ gì được, chỉ kịp nói: "Chia nhau ra, tự mình tìm cách cắt đuôi
bọn bọ cạp đi!" Nói đoạn liền cùng với Soares rẽ vào đường ngách bên phải. Max cũng ôm đầu chạy vù theo. Merkin trừng
mắt nhìn hắn một cái. Max bấy giờ mới giật mình kinh hoảng, rồi lập tức hiểu ra, vội vàng dẫn đám người phía sau chọn
đường khác bỏ chạy.
Ba người lại lên thêm hai tầng thang treo thẳng đứng nữa, rễ cây trong đường hầm mỗi lúc một thêm chằng chịt, đến cả
dưới chân cũng có một lớp phủ dày, đi bên trên như thể đang bước trên con đường nhỏ phủ đầy rơm rạ vậy. Vẫn không thấy
có cơ quan gì, cũng không thể liên lạc được với những người còn lại, ba người chỉ biết dựa vào chút ánh sáng yếu ớt
tiến lên trong bóng tối mịt mùng. Đi qua rất nhiều lối rẽ, vòng theo vô số đoạn đường hầm quanh co, ba người bọn Trác
Mộc Cường Ba cuối cùng đến được một gian thạch thất khác, bên trong cũng có mấy cái cột hệt như những gian trước đó,
ngoài ra không có gì khác cả. Đa Cát vừa mới nằm xuống đã nhảy phắt lên, vặn chiếc đèn pha trong tay lên mức sáng nhất,
nhìn chằm chằm vào vách tường thốt lên: "Thánh sứ đại nhân, ngài nhìn bên trên có gì kìa!"
Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La cùng ngẩng đầu quan sát, không ngờ trên tường đá của gian phòng này lại xuất hiện bích
họa, có điều kỹ thuật vẽ còn thô sơ, tựa như bích họa thời kỳ đồ đá vậy, nhìn rất giống bích họa vẽ cảnh săn voi ma mút
mà Trác Mộc Cường Ba từng thấy ở Khả Khả Tây Lý. Tranh cũng vẽ những hình người que diêm màu đen, cầm đá, gậy dài, dây
mây, vây quanh tấn công một sinh vật khổng lồ. So tỷ lệ giữa sinh vật khổng lồ với những người đang vây quanh, thì ít
nhất nó cũng phải cao bằng mười người, bảo nó giống cá sấu, rắn mối hay thằn lằn đều được cả, người vẽ tranh đặc biệt
nhấn mạnh vào cái miệng lởm chởm răng nhọn, các phần còn lại đều tô một màu đen tuyền.
Ánh đèn pha chầm chậm dịch chuyển, liền có thêm nhiều bích họa khác xuất hiện. Toàn bộ trần gian thạch thất này đều thể
hiện cảnh tượng săn giết, các loại sinh vật kỳ hình quái dạng cao thấp không đều đang ác chiến sinh tử với vô số con
người nhỏ bé, hình tượng mặc dù còn mơ hồ, nét vẽ còn thô lậu, nhưng vẫn phảng phất toát lên mùi khói lửa chiến tranh.
Lạt ma Á La nói: "có lẽ cả những gian thạch thất khác cũng có bích họa ẩn trong bóng tối, chỉ là chúng ta không chú ý
đến mà thôi."
Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: "Những bức tranh này có ý nghĩa gì nhỉ?"
Đa Cát nói: "Đây là Phục Ma đồ, Thánh sứ đại nhân hãy nhìn kỹ mà xem, toàn bộ phần giữa vẽ một tượng Phật lớn."
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo luồng sáng đèn pha, quả nhiên thấy chính giữa hiện lên một pho tượng Phật màu đen, hình vẽ
rất lớn, đến nỗi nếu chỉ nhìn thấy một phần thì thật khó mà nhận ra nổi. Tượng Phật có ba đầu ba mặt, mười tám cánh tay
đều giương hết ra, vô số tranh vẽ những con người nhỏ bé săn bắt các loài sinh vật cổ quái đều nằm cả trong vòng thâu
tóm của mười tám cánh tay này. Trác Mộc Cường Ba lại quan sát những sinh vật kỳ dị ấy, có con đang xòe cánh, có con rẽ
nước bơi, mặc dù hình ảnh rất trừu tượng, nhưng đại để thì là như vậy, gã liền hiểu ngay ra tắp lự: "Ồ, có phải ý anh
muốn nói, hình ảnh này biểu thị rằng dưới ánh hào quang của Phật, con người chiến thắng được các loài ma quỷ đúng
không, vậy nên những thứ này bề ngoài đều hết sức hung ác đáng sợ." Nói thì nói vậy, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn ngấm
ngầm cảm thấy không phải như thế, màu sắc của tượng Phật khổng lồ dường như tươi mới hơn nhiều, mà kỹ xảo của người vẽ
cũng tinh tế hơn một cách rõ rệt, tựa như là sau này mới vẽ thêm vào, còn những hình người nhỏ màu đen kia lại hết sức
cổ phác cục mịch, đó mới giống tranh vẽ bằng than của cổ nhân từ vạn năm về trước. Hình dáng của tượng Phật ở đây lại
giống hệt như tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh người làng Đa Cát bảo vệ, mà lạt ma Á La cũng từng nói qua, có nghĩa
là di tích này tồn tại trước cả Cổ Cách. Vậy thì những tượng Phật này, nếu không phải tượng Bản giáo thời vương triều
Tượng Hùng thì cũng là sản phẩm của thời kỳ Phật giáo và Bản giáo tranh đoạt giáo đồ. Còn phong cách hội họa và tính
chất tùy ý của hình vẽ người kia, và cả những người sống trong hang mà Lữ Cánh Nam từng nhắc đến, khiến Trác Mộc Cường
Ba lập tức liên tưởng đến bích họa từ thời viễn cổ.
"Không phải." Trác Mộc Cường Ba lại nói: "Tượng Phật này là sau này mới vẽ thêm vào, những người nhỏ màu đen kia là
tranh vẽ trên vách đá từ thời kỳ trước đó nữa, Á La đại sư, ngài cảm thấy thế nào?"
"Ừm," lạt ma Á La tán đồng: "Những hình màu đen kia có lẽ là tranh vẽ trên vách đá, có khả năng là do người cổ sống
trong hang động từ thời đồ đá hoặc sớm hơn nữa để lại, chắc là đều vẽ cảnh săn thú mà người cổ thích vẽ nhất, chỉ có
điều về mặt thể hình có hơi khoa trương lên một chút mà thôi."
Bọn họ lại đi qua mấy gian thạch thất nữa, bích họa trong mỗi gian lại mỗi khác, càng đi vào trong, bích họa càng ngay
ngắn nắn nót, đường nét càng thêm tinh tế, tựa hồ như được vẽ lên vào những thời kỳ lịch sử khác nhau vậy.
Bọn họ trông thấy những bức trang săn bắn lớn hơn, các loài động vật có quan hệ chặt chẽ với người thời xưa như trâu,
ngựa và một số quái thú cỡ nhỏ hơn dần chiếm vị trí trung tâm trong bích họa, các biểu hiện cũng rõ rệt hơn trước, có
con đang chạy, có con đang kêu réo, gào thét, ngoảnh đầu nhìn lại, một số bức thậm chí còn khiến người xem cảm nhận
được sự vùng vẫy của những con thú bị thương cùng tiếng thở phì phì của chúng.
Ngoài ra còn một số tranh vẽ cảnh nhảy múa của người nguyên thủy, những cô gái trong bầu ngực đầy đặn, mông nẩy nở,
cánh tay nhỏ nhắn, hai chân đứng choãi, một số ký hiệu sinh thực giản lược vẽ hai hình tròn thêm một đầu mũi tên, và
những ký hiệu khác nữa.
Khi bọn họ đi tới gian thạch thất thứ tư, Trác Mộc Cường Ba trông thấy một số hình rất kỳ quái, vẽ hình người nhỏ mặc
áo giáp, trong tay hình như cầm trường thương, chùy đồng, cung tên, trông như đang đấu võ với nhau.
"Đây là tranh gì vậy?" Đa Cát cũng lấy làm tò mò với loại tranh trên đá này.
Lạt ma Á La lại tỏ vẻ xúc động lạ thường: "Đây là Diễn võ chinh chiến đồ, là bích họa chiến tranh của người xưa để
lại."
"Chinh chiến đồ? Có liên quan gì đến Đạo quân Ánh Sáng không?" Trác Mộc Cường Ba lập tức liên tưởng đến bộ tộc Qua Ba
và Đạo quân Ánh Sáng thần bí kia.
Lạt ma Á La lắc đầu đáp: "không rõ nữa, có điều xét về nội dung của bích họa thì dường như chúng ta đã đi từ thời Đồ đá
cũ đến thời đại của các vương triều rồi, nhìn cách ăn mặc của người trong tranh không giống vương triều Thổ Phồn cho
lắm, lẽ nào… là vương triều Tượng Hùng?"
"Thánh sứ đại nhân, đến xem cái này này!" Đa Cát ở phía bên kia cũng có phát hiện mới. Trác Mộc Cường Ba sải bước tiến
lại gần, một bức bích họa còn khiến người ta kinh ngạc hơn nữa liền xuất hiện trước mắt gã. Trong tranh, một bên có lẽ
là đàn bò Yak Tây Tạng, nhưng không vẽ bừa bãi như trong các bức bích họa trước đó, mà được sắp xếp ngay ngắn chỉnh tề
thành một hình mũi tên, do con bò to lớn nhất dẫn đầu, đi ở đầu đội hình mũi tên đều là những con bò thân thể cường
tráng nhất, sừng sắc nhọn nhất, còn những con nhỏ hơn thì theo sát phía sau, cả đàn bò này đều là bò đực, tuyệt không
có lấy một con bò cái nào, trông tựa như đang tung vó lao vút về phía trước. Còn mảng bên của bức bích họa là một quần
thể sinh vật có vóc dáng nhỏ bé hơn một chút, nhìn bề ngoài có nét giống chó sói hay báo gì đấy, trong tranh thể hiện
nhấn mạnh vào bộ vuốt sắc và hàm răng nhọn hoắt của chúng. Đàn thú này hình thành thế bao vây hình bán nguyệt sẵn sàng
nghênh đón quân địch. Nhưng người sáng tạo nên bức bích họa này còn vẽ thêm rừng núi cây cối ở phần rìa tranh với một
nhóm sinh vật nhỏ hơn ẩn nấp, hình thành thế gọng kìm. Trong đàn động vật nhỏ hơn kia cũng có một con to hơn hẳn những
con khác dẫn đầu, con vật này đứng giữa vòng vây, đối mặt với con bò Yak đầu đàn, tựa hồ như đang phát lệnh. Đồng thời
ở những điểm đối diện với mũi nhọn của đàn bò Yak, vòng vây hình bán nguyệt của loài thú nhỏ hơn kia có rất nhiều con
đang ngoảnh đầu về phía sau, cơ hồ như đang chuẩn bị sẵn sàng bỏ chạy bất cứ lúc nào.
Toàn bộ bức tranh được vẽ hết sức sống động, ý đồ của người vẽ tranh cũng rõ mồn một, đàn bò Yak muốn xông thẳng vào
giữa bầy động vật nhỏ hơn kia, còn bầy động vật nhỏ hơn kia chỉ làm ra vẻ bao vây, chỉ cần đàn bò Yak xông vào chúng sẽ
tức khắc tản ra, khi ấy hai cánh phục kích trong rừng sẽ như hai lưỡi kiếm sắc thọc vào phần giữa phòng ngự tương đối
yếu hơn của đàn bò Yak, khi trận thế của đàn bò rối loạn, bọn đã tản ra kia sẽ áp trở lại. Xem ra đây giống như một bức
vẽ cảnh hai quân giao chiến, đôi bên đều có tướng lĩnh, có thế trận, vừa toát lên cái khí khái "đường hẹp gặp nhau, kẻ
dũng ắt thắng", lại vừa có kế dụ địch như câu "binh bất yếm trá", nếu xem như là trên chiến trường thực, cũng có thể
coi là một trận chiến kinh điển hiếm có trên đời. Nhưng hai bên giao chiến lại là hai loài động vật, hoàn toàn không có
hình người, đây quả là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba trông thấy một bức bích họa như thế này.
"Á La đại sư, ngài đến xem xem đây là gì thế?" Trác Mộc Cường Ba gọi vị sư già.
Lạt ma Á La xem qua một lượt rồi nói: "Đây là thú chiến. Trời ơi, không ngờ vẫn còn có bích họa lưu lại, thật là không
thể tin nổi!"
"Thú chiến? Thú chiến là gì thế? Là các loài thú chiến đấu với nhau à?" Trác Mộc Cường Ba cũng chú ý thấy, hình vẽ và
màu sắc của bức bích họa này có lẽ là cùng một thời kỳ với bức Diễn võ chinh chiến đồ kia.
"Không," lạt ma Á La lắc đầu phủ nhận, "đây không phải tranh đấu giữa động vật với nhau, mà cậu có thể để ý thấy không,
trong tranh này vẽ toàn bò đực, không có bò cái và bê con, tất cả bọn chúng đều là binh sĩ cả đấy, cả đàn sói kia cũng
là binh sĩ, đây là chiến tranh của con người."
"Chiến tranh của con người?" Trác Mộc Cường Ba nhìn lại bức bích họa không có lấy một hình người ấy thêm lần nữa, lờ mờ
cảm nhận được sát khí lạnh lẽo toát ra. Đúng thế, đàn bò Yak Tây Tạng và đàn sói mà lạt ma Á La nói đến đều đang thủ
vững trận địa của phe mình, trận thế quy củ như vậy, tuyệt đối không phải là cảnh vây bắt và đột phá vòng vây trong tự
nhiên, bức tranh này rõ là vẽ cảnh hai đội quân đang đối chiến. "Đại sư, thú chiến nghĩa là sao?" Trác Mộc Cường Ba hỏi
dồn.
Nhưng lạt ma Á La lại lắc đầu nói: "Nhất thời không thể nói rõ được, khi nào về tôi sẽ giải thích cho cậu sau. Thú
chiến là một hình thức tác chiến rất cổ xưa, đã thất truyền từ rất lâu rất lâu rồi, nhưng giờ tôi có thể nói với cậu
một điều, là đạo quân Ánh Sáng năm xưa đã sử dụng hình thức này để tác chiến đó."
"Hả?" Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng nghi hoặc, chẳng lẽ người bộ tộc Qua Ba đều là động vật hết cả sao? Không, sống
chung với sói, thú chiến, có lẽ nào… Bọn họ lại xem thêm các bức bích họa trong mấy gian thạch thất nữa, trong đó có
một bức vẽ cảnh thuyền đi giữa khe sâu hun hút, núi cao hai bên dốc đứng nhọn hoắt dị thường, mặt phía sau khe vực thì
bị tô màu đen kịt. Còn những con thuyền, nếu so với hình người, thì rõ là hơi quá cỡ một chút, hai bên thân thuyền chìa
ra hàng mái chèo đều tăm tắp, hết thuyền này đến thuyền khác nối nhau đi vào vùng tăm tối vô cùng tận. Lại có một gian
vẽ mười tám tòa tháp lộn ngược trên tay tượng Phật lớn, bên cạnh mỗi tòa tháp ngược ấy đều có hình người, có vẻ như là
các tăng lữ, có ngồi có nằm, tư thế rất khác biệt, lạt ma Á La đoán đây chắc là các phương thức tu hành khác nhau. Nhìn
thấy bức tranh hoàn chỉnh này, Trác Mộc Cường Ba mới có thể hình dung rõ về pho tượng Phật khổng lồ mà bọn họ đang ở
bên trên. Pho tượng khổng lồ mười tám cánh tay ba mặt ba đầu này thực ra chỉ có nửa phần thân nhô ra khỏi vách đá, cúi
đầu nhìn xuống chúng sinh, mười tám cánh tay cùng xòe ra như những chân nhện, từ trên xuống dưới, khoảng cách giữa hai
tay trái phải càng lúc càng lớn. Còn nửa phần thân dười của tượng Phật, chính là nơi bọn Trác Mộc Cường Ba đang đứng
thì chìm hẳn trong vách đá này thành một khối, tựa như có một đường đao khoét thành hình chữ "Liễu" xiên xiên vào
trong. Lạt ma Á La mê mẩn quan sát những bức tranh diễn tả cảnh tu hành, hai mắt lồi hẳn lên, tựa hồ muốn khắc sâu tất
cả những bức bích họa ấy vào trong đại não.
Bọn họ cứ thế xem hết bích họa trong các gian thạch thất, lạt ma Á La vẫn còn chưa muốn dứt ra, nhưng Trác Mộc Cường Ba
thì không còn hứng thú nhiều với những tranh tượng này nữa, chỉ muốn mau mau chóng chóng lên cho hết những thang treo
dựng đứng này, rồi liên lạc được với Đường Mẫn và những người khác. Gã phải thúc giục mãi, ba người mới lần lượt leo
lên cao dần.
Chạy vòng vèo đến nỗi đầu váng mắt hoa, Merkin và Soares đến được một gian thạch thất khổng lồ lớn chưa từng thấy,
thiết bị chiếu sáng của bọn y vặn lên hết cỡ cũng không nhìn thấy được đến trần. Chính giữa gian phòng đá rộng mênh
mông là một cột trụ hình vuông, bên trên đỡ một quả cầu hình tròn đường kính phải đến năm chục mét, nhìn xa trông như
viên minh châu khảm trên pháp trượng. Cả hai bước vào gian thạch thất, lập tức thấy mình trở nên nhỏ bé, trong này còn
ẩm ướt hơn tất cả những chỗ khác, nước thấm trên tường chảy ra thành dòng, đọng thành vũng lác đác dưới đất. Một con bồ
câu trắng của Soares dừng lại bên dưới quả cầu, vẻ như cảm nhận được điều gì đó nguy hiểm, mặc cho Soares có dùng điện
kích thích não bộ của nó thế nào, nó cũng không chịu bay lên. Soares lấy làm kỳ quái nói: "Chỗ này chắc là nguồn gốc
của hơi ẩm xung quanh đây phải không, hừm? Tạc ra quả cầu lớn thế này để làm gì nhỉ?" Merkin kích động thốt lên: "Tìm
thấy rồi, chính là ở đây. Đây chính là mặt trăng đó! Người ta đem một mặt trăng trên trời giấu vào bóng đêm, duy chỉ có
ánh sáng màu bạc mới khiến nó một lần nữa có được sức mạnh, mở ra tòa cung điện của người dũng sĩ." Y thầm nhẩm lại một
lượt bài ca cổ của Đa Cát, cảm giác không thể sai đi đâu được nữa.
Soares nhìn chăm chú rồi nói: "Mặt trăng? Mặt trăng này sao lại mấp mô lồi lõm như thế? Chẳng lẽ đám người này từ thời
cổ đại đã quan sát được những dãy núi hình cung trên mặt trăng rồi à?"
Merkin nói: "Ai mà biết được, trí tuệ của cổ nhân cao thấp thế nào không phải chuyện hôm nay tôi với anh có thể ước
đoán được. Giống như thứ thu hút côn trùng kia kìa, chẳng phải anh luôn cho rằng, đó là thủ đoạn điều khiển sinh vật
mấy năm gần đây mới nghiên cứu ra hay sao, vậy mà người ta đã sử dụng từ cả ngàn năm trước rồi." Nói đoạn, y bước lại
gần cột đá, chuẩn bị bám vào trèo lên.
"Đợi chút đã!" Soares nói, "Chỗ này dường như có điều gì cổ quái, anh nhìn con bồ câu kia xem, nó còn chống lại cả tín
hiệu điện tử tôi phát ra nữa." Merkin cười khẩy: "Trong vách núi này có khoáng vật làm nhiễu tín hiệu vô tuyến, chắc là
tác dụng của từ trường mạnh, cũng có khả năng hệ thống điều khiển con bồ câu của anh bị nhiễu loạn, không chịu sự khống
chế nữa chứ, phải không? Đâu đó trên cái trụ đá này chắc hẳn phải có chỗ để lắp con mắt bạc, chúng ta chỉ cần tìm được
nó mà lắp vào, có lẽ là sẽ có thể nhìn thấy thứ mà chúng ta muốn sở hữu đó."
Soares lấy ống nhòm nhìn đêm ra, điều chỉnh tiêu cự rồi đưa lên quan sát quả cầu khổng lồ trong bóng tối, lẩm bẩm:
"Không đúng, đây không phải tượng điêu khắc đá, đây là, đây là cái khỉ gì quấn lại vậy? Ghét thật, chỗ này tối quá,
chẳng thể nào nhìn rõ được." Quả cầu mà Soares nhìn thấy giống như một búi nhợ lớn, toàn là những dải dây quấn quang
quấn dọc chằng chịt, hết tầng này đến tầng khác, trong bóng tối vẫn lờ mờ nhìn ra những tầng lớp cách biệt, ngoài ra
còn có rất nhiều sợi thừng to hơn vươn ra cả bốn phương tám hướng, đầu mút chìm sâu vào vách đá ở bốn phía xung
quanh.