Khổng Minh chiều ý, sai Pháp Chánh theo Huỳnh Trung.
Minh nói với Huyền Ðức:
- Tôi nói khích y, có thế y mới thành công. Tuy vậy, Chúa công cũng phải đem binh tới tiếp ứng mới được.
Lưu Phong và Mạnh Ðạt được sai đến đóng nơi hiểm yếu, rải rác để làm giặc nghi sợ. Ðồng thời, Khổng Minh sai người qua
Hạ Biên trao kế cho Mã Siêu, sai Nghiêm Nhan qua Ba Tây, sai Trương Phi và Ngụy Diên đi lấy Hán Trung.
Trong khi đó, Trương Hấp và Hầu Thượng đến gặp Hạ Hầu Uyên nói:
- Thiên Ðản San đã mất, Hàng Hạo và Hầu Ðức tử trận. Lại có tin Lưu Bị đem binh đến Hớn Trung, vậy phải tâu ngay với
Ngụy Vương xin sớm phát binh chống cự. Uyên báo Tào Hồng, Hồng suốt đêm về ra mắt Tào Tháo.
Tháo được tin bèn nghe lời Lưu Hoa, đích thân dẫn bốn mươi vạn binh, phân ra ba đạo kéo đi. Tiên phong là Hạ Hầu Ðôn.
Tào Tháo lãnh trung quân, Tào Hưu đi hậu tập.
Tháo cưởi ngựa bạch, mặc áo gấm, mang đai ngọc, với đủ nghi vệ tả phù hữu bật.
Khi ra đến ải Ðông Quan, đi ngang qua khu rừng rậm, Tào Tháo hỏi:
- Ðây là đâu?
Tả hữu thưa:
- Ðây là rừng Lam Ðiền, trong đó có nàng Thái Ðạm, con gái cố tướng Thái Ung, chồng nàng Ðổng Kỳ (Tháo quen với Thái
Ung, còn Thái Ðạm trước kia là tướng Vệ Ðạo Giới, Sau quân phương Bắc nổi lên giết chồng nàng và bắt nàng đem làm vợ,
sinh được hai con. Khi ở Bắc nàng làm được 18 khúc kèn rợ Hồ, truyền đến Trung Nguyên. Tháo cảm thương, chuộc lại Vua
phương Bắc là Tả Hiền sợ Tháo đành chịu. Tháo gả nàng cho Ðổng Kỳ).
Nhớ lại chuyện xưa, Tháo truyền quan quân vào nhà ấy. Tới nơi, Ðổng Kỳ đi xa, chỉ mình Thái Ðạm ở nhà. Nghe tin Tháo
đến, sửa soạn nghênh tiếp. Lúc đứng trước bức tranh bi vân, Tháo hỏi lai lịch, Thái Ðạm kể: Ðó là tấm bia của nàng Tào
Nga con người lên đồng tên Tào Vu. Vu chết vì uống rượu. Thấy cha chết Nga bèn nhãy xuống sông chết theo. Năm ngày sau
thây nổi lên được vớt và chôn ở mé sông, sau được phong tặng hiếu nữ, được dựng bia ghi khắc bài miếu rất hay. Cha
thiếp là Thái Ung đến xem có phê vào sau tấm bia 8 chữ. Tháo bước lại gần đọc lớn: Huỳnh Quyến ấu phụ ngoại Tôn Phi
Bạch ".
Ðọc xong hỏi rằng:
- Nàng hiễu 8 chữ ấy không?
Thái Ðạm đáp:
- Dạ, không rõ.
Tào Tháo hỏi chư tướng:
- Ai hiểu được?
Dương Tu đáp:
- Tôi hiểu.
Tào Tháo nhìn Dương Tu:
- Khoan, đừng nói!
Sau đó từ giã nàng Thái Ðạm trở ra. Ði được 5 dặm, Tháo bảo Dương Tu:
- Ngươi thử nói ta nghe.
Dương Tu đáp:
- Ðó là ẩn ngử: Huỳnh Quyến là Nhan Sắc chi tư, một bên chữ Sắc, bên kia chữ Tư thành ra chữ Tuyệt. Ấu phụ là Thiếu Nữ,
bên chữ Nữ, thêm chữ Thiếu thành ra chữ Diệu. Ngoại Tôn là nữ chi Tử: một bên chữ Nữ, thêm chữ Tử thành ra chữ Hảo. Phi
Bạch là Thọ ngũ Tân, bên chữ Thọ, thêm chữ Tân thành chữ Từ. Tám chữ ráp thành: Tuyệt Diệu Hảo Từ.
Tháo cả kinh, thầm khen:
- Thật hợp ý ta!
Ai nấy đều phục Dương Tu.
Binh ra khỏi ải Ðồng Quan nhắm Nam Trịnh mà tiến phát.
Tào Hồng thuật hết việc của Trương Hấp.
Tháo nói:
- Ðó không phải tội Hấp. Việc thắng bại là lẽ thường.
Hồng thưa:
- Lưu Bị sai Huỳnh Trung đánh Ðịnh Quân San. Hạ Hầu Uyên được lệnh đại vương đến cố thủ mà không chịu ra đánh.
Tháo nói:
- Nếu không ra đánh thì nhát quá! Nói xong, truyền Hạ Hầu Uyên tấn binh.
Lưu Hoa can:
- Hạ Hầu Uyên tính nóng e trúng gian kế.
Tháo bèn viết thư trao Hầu Uyên.
Tiếp được thư, Uyên đọc:
" Xưa nay Dũng, Trí thường đi đôi thì mới lợi. Nếu ỷ mạnh, chỉ đánh được một người, lấy Trí đánh đuợc nhiều người. Làm
tướng phải có kinh quyền. Nay ta đến Nam Trịnh là để xem tài của tướng quân. Chớ làm mất tài năng của mình! "
Xem xong Hầu Uyên mừng rỡ, nói với Trương Hấp:
- Ngụy vương đóng tại Nam Trịnh cố trừ Lưu Bị, nếu ta cố thủ hoài sao lập được đại công. Chi bằng xuất trận đánh Huỳnh
Trung xem sao.
Hấp nói:
- Huỳnh Trung tài trí có dư, lại có Pháp Chánh giúp. Thiệt khó mà đánh!
Hầu Uyên nói:
- Cứ cố thủ, mặt mũi nào nhìn đại vương. Nói xong truyền lệnh:
- Ai dám ra cự địch?
Hạ Hầu Thượng lớn tiếng:
- Tôi dám?
Hạ Hầu Uyên nói:
- Ðánh Huỳnh Trung thì nên thua, chớ nên thắng. Ta có kế...
Hầu Thượng vâng lệnh, kéo quân khỏi trại.
Huỳnh Trung và Pháp Chánh nghe binh Tháo từ núi kéo xuống khai chiến, Trung muốn đi, Pháp Chánh can:
- Ta mới đến, chưa rõ binh tình, vậy phải chọn tướng ra dò binh lực của nó đã.
Huỳnh Trung hỏi:
- Ai dám ra trước?
Trần Thức lớn tiếng:
- Có tôi!
Trung bèn khiến Thức ra sau Khẩu dàn trận.
Vừa giao chiến vài hiệp, Hạ Hầu Thượng giả chạy Thức rượt theo thì bị Hạ Hầu Uyên xua binh lướt tới, Thức cự không nổi
bị Uyên bắt sống, quân lính đầu hàng rất nhiều.
Huỳnh Trung biết tin Trần Thức thua, sai Pháp Chánh đến hỏi, Chánh nói:
- Hầu Uyên tánh nóng, nên dụ y mà đánh. Cứ cho quân đến sát bên thành trêu tức nó ra đánh, ắt không còn nghĩ ra kế
gì.
Huỳnh Trung y kế Pháp Chánh.
Hầu Uyên muốn ra đánh.
Trương Hấp can:
- Ấy là kế của giặc!
Hầu Uyên giận lắm, bèn khiến Hạ Hầu Thượng ra đánh.
Huỳnh Trung xuất trận, đánh chưa được vài hiệp đã bắt sống được Hầu Thượng.
Hầu Uyên hay tin, khiến người đến thương nghị đổi Trần Thức lấy Hầu Thượng.
Huỳnh Trung ước hẹn ngày mai trao đổi tù tại trận.
Hôm sau, Trung và Uyên kéo quân bố trận. Trung dắt Hầu Thượng, Uyên dắt Trần Thức. Hai người đều không cho mặc giáp cầm
thương, cởi ngựa. Hồi trống vang lên, Thức và Thượng cứ nhắm ngay trận của mình mà chạy về.
Về được nửa đường thì Hạ Hầu Thượng trúng tên của Huỳnh Trung. Thấy thế Hầu Uyên giận lắm, vung thương đến đánh. Huỳnh
Trung mừng rỡ ra cự địch. Hai bên đánh nhau không phân thắng bại. Thấy vậy, Trương Hấp lui quân trở
về.
Hầu Uyên hỏi thì Hấp đáp:
- Tôi nghe nói có cờ cửa quân Thục trên núi, sợ tướng quân mắc mưu địch.
Nghe lời, Hầu Uyên cố thủ không ra nữa đánh phá cả ngày không thắng nổi, Huỳnh Trung cũng lui binh trở về.
Pháp Chánh nói:
- Ðể tôi lên đỉnh núi ngang tầm với Ðịnh Quân San xem tình hình. Lão tướng nên đóng quân giữa núi. Hễ quân sĩ
địch mạnh mẽ tôi phất cờ trắng, hễ chúng mỏi mệt; tôi phất cờ đỏ. Lúc đó, lão tướng xuống núi mà áp. Thế là ta lấy khỏe
đánh mệt vậy.