Dịch giả: Phan Văn Các
Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho "kì thư" rất đặc sắc của nền văn họccổ điển Trung Hoa.
Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh goạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thântừ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lạimột bước nhảy tót lên đia vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quanhệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thànhĐề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộcđời dâm ô cực kỳ bỉ ổi.
Quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệchằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh độngcùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngaybên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bip bợm lừađảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉmà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hộiphong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một conquỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đànbà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyênsuốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục.
Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt.Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn"hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng" thì thị cùng Vươngbà "kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả haicùng ngồi khóc". Thị lập bàn thờ chồng với bài vị "Vong phu Võ Đại lang chi linh", nhưng sẵn sàng hú hí với Tây MônKhánh ngay trước bàn thờ ấy.
Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội:
Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc,con hát Lưu Quế thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám ngườikí sinh trong xã hội đô thị.
Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hìnhcó xương có thịt.
Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, có một vị trí quan trọng.
Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóatăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hànhvới điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573- 1620) đã xuất hiện một cục diệnphồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết.
Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại:
Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kểchuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyếtlịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc.
Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí - truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa nàymiêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiềuvào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học.
Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện likỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Thứ ba là tiểu thuyết "công án", nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương,71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểuthuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án.
Thứ tư là tiểu thuyết "thế tình" (tình đời). Loai này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và NgọcKiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loạinày ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội.
Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đềtựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là "tiểu thuyết của tiểu thuyết", còn Ngụy BệnhHiệp thì so sánh với tác phẩm của Đickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâuchuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội - nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đềukhông rộng lớn bằng.
Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với:
Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệtlà ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng không sánh được.
Ngay cả sau khi bị liệt vào hạng "sách cấm" thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong "tứ đại kì thư" (bốn cuốn sáchlớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh:
Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đềugiảng và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc.
Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược:
"Tiểu thuyết lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyện làm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thờiMinh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc innăm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản "Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư".
Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của, thực hiện bởi A.P. Bazin:
Histoire de Wou Song et de KimLien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp).
Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York.
Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bảndịch.
Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập,hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản từ thoại.
Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầusách:
"In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương - 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác", song không cho biếttên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào.
Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng mộtnguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chungcủa giới nghiên cứu ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên từ thoại mới là văn bản tiêu biểu.
Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó ( tạm dịch ) Hệ văn bản 3 Hệ văn ban 2 Hồi 1 Bạn bè kếtnghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ, Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa.
Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ, Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan.
Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa.
Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, haivấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau "cái cáchmở cửa").
Một là vấn đề "văn bản ".
Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khácnhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu nhưsau:
Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng:
Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai - mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là truyệnthì tên sách đề là Tân khắc từ thoại. Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụplên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản từ thoại (bảncổ có tranh vẽ) v.v...
Cuối đời Minh, do chỗ từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thànhmột hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình (bản khác mới có tranh thêu vàlời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản (thêm chữ "nguyên bản"). Người ta quen gọi loại này là "bản SùngTrinh" . Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loạinày.
Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnhdanh nó là Thiên hạ "đệ nhất kì thư". Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hànhphê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tươngđối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệnhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư, Đệ nhất kì thư tú tượng. Tú tượng đệ nhất kì thư. Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăngđồ tượng túc bản, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đathê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nềncó lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc kì thư.
Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt " có lời bình của họ Trương", xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cáigọi là " chân chính', đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản, Tiêu điểm côbản cổ bản, Cảnh thế kì thư v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là "chân" (thật) "cô" (hiếm), cổ (xưa),nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời.
Cho đến nay tính ra lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản:
1- Hệ văn bản "từ thoại":
Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là "bản từ thoại", học giả Mỹ gọi là "hệ bản A".
Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản đã biết. Hệ này nay cònlại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ Ở Nhật Bản.
Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ "từ thoại". Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật "thuyếtxướng" (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thờiNguyên - Minh. từ thoại tuy mang tên như vậy song không thể coi là "từ thoại" chính cống nữa mà nó rõ ràng là một photrường thiên tiểu thuyết mang màu sắc "từ thoại" mà thôi.
2- Hệ văn bản "tú tượng phê cải" (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại "bản Sùng Trinh"và loại "bản Trương Bình".
Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình ; 2 / tranh thêu.
So với hệ văn bản "từ thoại" nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản "từ thoại" vì đưa vàoquá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết.
a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh.
Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau:
- Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) - Thư viện Thượng Hải - Thư viện Đại học Bắc Kinh Trung Quốc - Thư viện Thiên Tân - Thưviện Trung ương Đài Loan - Nội các văn khố - Trường Đại học Tôkiô Nhật Bản - Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bảnTrương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên).
3- Hệ văn bản rút gọn:
Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh "chân bản", "cổ bản" phần nhiều là "đồ rởm", xưa nay không được giớihọc thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dámrêu rao là "chân", là "cổ". Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưutruyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng.
Hai là vấn đề "tác giả " Tác giả là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản từ thoại khắc in ở thời VạnLịch nhà Minh ghi là tác. rõ ràng là một bút danh có nghĩa là "chàng cười", "chàng hay đùa" (Tiếu là cười, còn sinh làtiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả mộtđịa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận,thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyênbỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đếnthời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là "ông vui vui") cũng chỉ là một biến dạng của màthôi. Ngoài ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đờiMinh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là "trại hoa trận gấm").
Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứtrực tiếp.
Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn khảochứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh(1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triềuGia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độcthư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra đểtrả thù cho bố.
Ngụy Tử Vân trong đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyệnthật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng,từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánhmiêu tả trong truyện, Ngụy Tư?
Vân cho rằng phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc.
Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên(1501-1568).
Đầu năm 1984, tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan LăngTiếu. Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh.
Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981.
Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân "Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được" kèmtheo phụ đề "Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng", đồng thời công bố liền hai bài " tác giả Đồ Longkhảo" và " tác giả Đồ Long khảo tục" của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện đượcĐồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Triết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiênsinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắpnơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời VạnLịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bô.
Lễ. Khảo trong từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự,gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh "Đại trụ sử", chức danh này trước chưa từng nghenói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng củamục Đô sát viện có tìm thấy câu "Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi" (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làmchức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vânkhảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hailí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàntoàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵcủa Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận ; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu ThủHữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủtrọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết là điều có thể tin được.
Năm 1985, nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của ) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuấtbản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một "Đồ XíchThủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương", mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng địnhthêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả.
Dĩ nhiên đối với một "câu đố" đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khácnhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác.
Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nóichung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi.
Phan Văn Các 1-1999
Niên hiệu Chính Hòa đời Huy Tông triều Tống, tại huyện Thanh Hà, phủ Đông Bình, tỉnh Sơn Đông, cómột người con nhà gia thế, tướng mạo cực khôi ngô nhưng có tính xa xỉ hoang phí, khoảng hai mươi sáu, hai mươi bảytuổi, họ Tây Môn, húy Khánh. Cha là Tây Môn Quỳ, thường tới vùng Xuyên Quảng mua bán dược phẩm, nên có mở tại huyệnThanh Hà một cửa hiệu bán thuốc khá lớn. Gia đình Tây Môn có nhà cửa đồ sộ, kẻ ăn người ở tấp nập, ngựa nuôi từng bảy,tuy chưa phải là thập phần phú quý nhưng cũng vào loại hào phú tại huyện Thanh Hà. Vợ chồng Tây Môn Qùy viên ngoại thìcha mẹ đều đã quy tiên, chỉ có một con trai nên yêu quý như hòn ngọc trên tay. Người con trai này vì được nuông chiềuquá mức nên không chịu học hành, suốt ngày chỉ rong chơi phóng đãng. Sau khi cha mẹ mất thì không chịu lo làm ăn, chỉvui với mấy món côn quyền học được, lại say mê cờ bạc rượu chè. Bạn bè toàn hạng chẳng ra gì, người bạn tương đắc nhấthọ Ứng, tên Bá Tước tự Quang Hầu, nguyên là con trai thứ của Ứng viên ngoại, gia đình làm nghề dệt lụa, nhưng đã sasút. Ứng Bá Tước chỉ quanh quẩn những nơi quen biết để sống qua ngày, và được bạn bè đùa đặt tên là Ứng Hoa Tử. Ứng HoaTử rất giỏi các môn cờ bạc. Người bạn thân thiết thứ nhì họ Tạ, tên Hy Đại, tự Tử Thuần, vốn là con cháu một gia đìnhnhà quan, được hưởng tập ấm tại huyện Thanh Hà. Tạ Hy Đại vì cha mẹ mất sớm nên sống lông bông, nhưng lại có tài gảyđàn tỳ bà. Hai người này là bạn tâm đầu ý hợp của Tây Môn Khánh. Ngoài ra cũng có vài người bạn khác, nhưng toàn làhạng phá gia phi tử. Một người là Chúc Thật Niệm, tự Cống Thành, một người là Tôn Thiên Hóa, tự Bá Tu Xước, hiệu TônQuả Chủy. Một người là Ngô Điển Ân, trước làm chức Âm dương sinh trong huyện, nhưng sau bị cách chức, chuyên tới vaytiền đám quan lại trong huyện, do đó thường lai vãng với Tây Môn Khánh. Lại còn một người em của Vân Tham tướng, tên làVân Lý Thủ, tự Phi Khứ. Một người nữa là Thường Trĩ Tiết, tư.
Kiên Sơ. Một người khác là Bốc Chí Đạo, một người nữa là Bạch Lãi Quang.
Lãi Quang thường hay rủ vài chục bạn bè tới tìm Tây Môn Khánh để bắt Khánh bỏ tiền ra cho mọi người uống rượu vui chơi.Một người hoang phí xa xỉ như Tây Môn Khánh mà lại gặp đám bạn bè như vậy thì dẫu có tiền rừng bạc biển cũng phải hếtđần. Quả nhiên chỉ vài năm sau, Tây Môn Khánh đã làm tiêu tan gia sản ông cha để lại, chỉ còn cái nhà đang ở là chưabán mà thôi. Cửa hiệu dược phẩm tuy vẫn còn, nhưng vốn liếng hầu hết đã về tay người khác. Tuy nhiên Tây Môn Khánh tínhtình hung bạo, thường dựa vào thanh thế của cha để lại, đồng thời được bốn tên gian thần trong triều là Cao, Dương,Đổng, Thí nâng đỡ, nên chuyên áp bức người trong huyện để làm tiền, cả huyện ai cũng sợ, gọi Tây Môn Khánh là Tây MônĐại quan nhân. Vợ Tây Môn Khánh là trần thị mất sớm, chỉ sinh được một con gái tên là Tây Môn Đại Thư. Lúc Tây Môn Qùycòn sống thì đã hứa. gả Đại Thư cho Trần Kính Tế, con trai của Trần Hồng, thân gia của Dương Đề đốc, chỉ huy mười támvạn cấm quân tại Đông Kinh. Sau này Tây Môn Khánh cưới con gái của Tả vệ Ngô Thiên Hộ tại huyện Thanh Hà, làm kế thất.Ngô thị vào khoảng hai mươi lăm tuổi, vì sinh vào ngày rằm tháng rám nên còn có tiểu danh là Nguyệt Thư. lúc về làm vợTây Môn Khánh thì mọi người quen gọi Ngô thị là Nguyệt nương. Nguyệt nương là người hiền thục đảm đang, nhưng gia đìnhchỉ còn có tiếng mà không có miếng. Nguyệt nương rất mực phục tòng chồng, nhưng vì không có tiền cung phụng cho chồngnên thường phải chịu điều nọ tiếng kia.
Một hôm Ứng Bá Tước tới chơi, cùng Tây Môn Khánh chuyện vãn. Tây Môn Khánh nói tới chuyện gia sản táng tận, ứng Bá tướcbảo:
- Việc gì anh phải lo, anh là người tài mạo kiêm toàn, muốn có vàng bạc châu báu, có hầu thiếp đẹp đâu phải là khó.
Tây Môn Khánh hỏi:
- Ứng nhị ca nói vậy nghĩa là thế nào?
Ứng Bá Tước bảo:
- Nhà họ Lý có cô con gái là Lý Kiều Nhi, gia đình đó giàu có ức vạn, hiện đang kén chồng cho con, nếu ca ca tới đóđánh tiếng xin làm rể, có phải là được cả người lẫn của không?
Tây Môn Khánh cười:
- Thiên hạ làm gì có chuyện như vậy?
Ứng Bá tước nói:
- Nếu ca ca không tin, thì cứ đi theo tôi.
Tây Môn Khánh mừng lắm, liền vào nhà trong thay quần áo đẹp, rồi cùng gia nhân Đại An Nhi theo Ứng Bá Tước tới nhà họLý. Tới nơi, Đại An Nhi đứng ngoài, Ứng Bá Tước dẫn Tây Môn Khánh vào trong.
Lý Kiều Nhi ra tiếp. Tây Môn Khánh liếc nhìn, thấy nàng quả có nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn. Ứng Bá Tước nói với LýKiều Nhi:
- Vị này là thân thích của Dương Đề đốc, chỉ huy mười tám vạn cấm quân tại Đông Kinh, tức là Tây Môn Đại quan nhân. Càhuyện Thanh Hà không ai là không biết Đại quan nhân. Chỉ hiềm Đại quan nhân đây chưa có con trai, nên muốn lập nhịphòng. Vì lẽ đó mà tôi xin tới đây làm ông mối.
Lý Kiều Nhi nói:
- Ngài dạy quá lời, chúng tôi đâu được cái diễm phúc đó.
Nói xong trộm ngắm Tây Môn Khánh từ đầu tới chân, thấy tướng mạo khôi ngô tuấn tú thì trong lòng thập phần ưng ý, bènxin phép mời Ứng Bá Tước vào nhà trong, hỏi lại cho rõ, sau đó bằng lòng đê?
Ứng Bá Tước đứng ra mai mối. Đôi bên đồng ý là sính lễ chỉ cần hai trăm lạng bạc, mọi việc khác Ứng Bá trước xin đứngra lo hầu cho cả hai bên. Xong xuôi, Ứng Bá Tước trở ra nói lại cho Tây Môn Khánh biết. Tây Môn Khánh lại nhờ Ứng BáTước trở vào ấn định rõ ràng mọi việc với Lý Kiều Nhi. Bàn định xong thì trời đã muộn. Tây Môn khánh cáo từ ra về cònỨng Bá Tước thì được Lý Kiều Nhi mời ở lại ăn cơm.
Về tới nhà, Tây Môn Khánh lén thâu thập tất cả đồ trang sức của Trần thị để lại, cùng tư trang tế nhuyễn của Ngô Nguyệtnương, hôm sau đem hết cho Ứng Bá Tước nhờ lo mọi chuyện.
Chưa đầy mười ngày sau thì Tây Môn Khánh cưới Lý Kiều Nhi về làm thứ phòng. Ngô Nguyệt nương vô cùng sầu muộn lại thấyLý Kiều Nhi đem theo ba ngàn lạng nên càng không dám nói gì.
Tây Môn Khánh là người tham tiền hiếu sắc, sau khi cưới được Lý Kiều Nhi, có được nhiều tiền, bèn cưới thêm người vợthứ ba là Trác Nhị Thư. Trác Nhị Thư thể chất mong manh yếu đuối, thường hay bệnh tật.
Một hôm, Tây Môn Khánh bảo Ngô Nguyệt nương:
- Hôm nay là hai mươi lăm tháng Chín rồi, mồng ba tháng sau là tới kỳ hội họp với anh em. Hôm đó nàng phải cho dọn haichiếu rượu thịnh soạn, rồi gọi vài con hát tới cho anh em người ta vui vẻ. Nàng nhớ lo liệu tử tế cho ta.
Ngô Nguyệt nương nói:
- Thôi đừng nhắc tới những người đó nữa, theo tôi thì họ không phải là những người tốt, trái lại tôi cho là những ngườihại chàng mà thôi. Chàng mà còn giao du với họ thì gia đình không bao giờ khá được đâu. Vả lại hiện Trác Nhị Thư đangbệnh, tôi khuyên chàng đừng nên rượu chè quá độ.
Tây Môn Khánh tức giận bảo:
- Thôi im đi, đừng nói nữa, ta không nghe đâu, bực mình lắm. Cứ như nàng nói thì trong đám anh em bè bạn của ta khôngcó ai là người tốt hay sao? Ai thì không nói làm gì. cứ như Ứng nhị ca là người tốt bụng, ai nhờ gì cũng được hài lòng.Ứng nhị ca lại là người tháo vát, lo việc gì cũng trôi chảy. Lại phải kể tới Tạ Tử Thuần nữa chứ. Tử Thuần cũng làngười lanh lợi giỏi giang. Nhà mình nay đang cần nhiều người giúp đỡ, nay mình mở tiệc kết tình huynh đệ với bạn bè làchỉ có lợi mà thôi. Mai đâu mình còn nhờ va?
người này người kia chứ.
Ngô Nguyệt nương tiếp lời:
- Kết nghĩa bằng hữu huynh đệ là điều tốt, nhưng chỉ sợ sau này không ai cho mình nhờ vả, hiện thời chỉ thấy họ nhờ vảmình mà thôi.
Tây Môn Khánh cười:
- Thì mình cho người ta nhờ vả cũng là điều tốt chứ sao?
Vợ chồng đang nói chuyện thì Đại An Nhi, tên gia nhân thân tín của Tây Môn Khánh, tướng mạo đẹp đẽ và rất lanh lợi, vàothưa:
- Có Ứng nhị thúc và Tạ đại thúc tới.
Tây Môn Khánh bảo:
- Ta cũng vừa nhắc xong thì họ tới.
Vừa nói vừa bước ra phòng khách. Tại phòng khách, Ứng Bá Tước và Tạ Hy Đại đang ngồi chờ.
Ứng Bá Tước hôm nay đội khăn lượt den, mặc áo đoạn màu thanh thiên, chân đi hài tơ. Tạ Hy lại cũng ăn mặc chững chạclắm. Thấy Tây Môn Khánh bước ra, cả hai đều đứng dậy vái chào. Tây Môn Khánh đáp lễ mời ngồi, gọi gia nhân pha trà, rồinói:
- Hai người tới thật đúng lúc. Mấy hôm nay tôi buồn quá, chẳng đi được tới đâu, mà cũng chẳng thấy bạn bè tới thăm.
Ứng Bá Tước nói:
- Ca ca trách vậy cũng phải, nhưng anh em mình mỗi người một việc, cũng ít khi rảnh rỗi, nhiều khi muốn tới thăm ca camà cứ gặp chuyện này chuyện kia cản trở.
Tây Môn Khánh hỏi:
- Mấy hôm nay nhị ca ở đâu?
Ứng Bá Tước đáp:
- Hôm qua thì tôi sang nhà họ Lý thăm đứa nhỏ em gái của Quế Khanh, cháu gái của Nhị tẩu đây, nó tên là Quế Thư Nhi,lâu nay tôi không gặp nó. Nó còn nhỏ mà đã đẹp lắm, chắc nay mai lớn lên phải là tuyệt thế giai nhân chứ không chơi.Cũng hôm qua mẹ nó. hai lần khẩn khoản nhờ tôi mai mối, điệu này thì chắc lại khó lòng lọt tay ca ca.
Tây Môn Khánh nôn nóng:
- Nếu quả có sắc đẹp như vậy thì tại sao mình không tới thăm cho biết?
Tạ Hy Đại tiếp lời:
- Ca ca chưa tin hay sao? Quả là muôn phần xinh đẹp.
Tây Môn Khánh lại hỏi:
- Hôm qua nhị ca ở bên đó, còn mấy hôm trước thì ở đâu?
Ứng Bá Tước đáp:
- Hôm trước khi Bốc Chí Đạo từ trần, tôi phải ở đó giúp đỡ, bận rộn suốt mấy ngày. Sau khi đưa đám thì chị dâu Bốc ChíĐạo dặn đi dặn lại tôi rằng có gặp ca ca thì xin lỗi giùm, vì hoàn cảnh eo hẹp, chẳng có tiệc tùng gì cả nên không dámbáo tin cho ca ca. Nhà đó cứ áy náy lắm.
Tây Môn Khánh nói:
- Tôi cũng có nghe là Bốc đệ bệnh nặng, không ngờ đã chết. Lúc trước Bốc đệ có tặng tôi một chiếc quạt Kim Xuyên, tôiđang không biết phải tặng lại thứ gì thì nay Bốc đệ đã ra người thiên cổ.
Tạ Hy Đại tiếp lời:
- Anh em mình có mười người tất cả, nay như vậy là thiếu mất một rồi.
Đoạn quay sang nói với Ứng Bá Tước:
- Mồng ba tháng sau là tới kỳ họp mặt, chẳng lẽ anh em mình đây lại làm tốn kém cho Đại quan nhân sao?
Tây Môn Khánh chặn lời:
- Thì có gì mà tốn kém? Anh em mình họp nhau lại, nếu là uống rượu mua vui thì chẳng nói làm gì, nhưng là họp nhau đểkết nghĩa đệ huynh thì làm ở nhà cũng giảm phần trang nghiêm. Chi bằng mình chọn một ngôi chùa, tới đó viết một tờ sớkết nghĩa, mình cùng lạy, nhận làm anh em, nguyện sau này che chở giúp đỡ nhau. Việc này cũng không nên tốn kém xa phílàm gì, nhưng là việc chung thì anh em mình tùy tiện, mỗi người đóng góp ít nhiều, biện một cái lễ tam sinh. Không phảilà tôi không lo nổi việc này mà phải bắt anh em đóng góp, nhưng đây là chuyện kết nghĩa, cho nên người nào cũng phải cóphần mình, như vậy mới quý.
Ứng Bá Tước vội nói:
- Ca ca nói rất phải, cần nhất là lòng thành, anh em cứ tùy tiện lo hết lòng mình là được. Tốn kém cũng chẳng baonhiêu.
Tây Môn Khánh cười:
- Thì cứ gọi cho có phần mà thôi.
Tạ Hy Đại nói:
- Kết nghĩa thì phải mười người mới tốt. Bốc Chí Đạo không còn, mình phải tìm người thay vào mới được.
Tây Môn Khánh trầm ngâm giây lát rồi bảo:
- Ở đây có Hoa nhị ca, là cháu của Hoa Thái giám, cũng có tiền bạc, nhà ở ngay sau nhà tôi, chỉ cách có bức tường, vẫnhay sang trò chuyện với tôi, tính tình cũng được lắm, chi bằng mình mời Hoa nhị ca kết nghĩa.
Ứng Bá Tước vỗ tay hỏi:
- Có phải là Hoa Tử Hư chăng?
Tây Môn Khánh đáp:
- Phải.
Ứng Bá Tước cười bảo:
- Nếu vậy thì xin mời vị Đại quan đó đi chỗ khác, kết nghĩa với ông đó thì sau này anh em mình đến có một tiệm rượumất.
Tây Môn Khánh cười bảo:
- Đang nói chuyện đứng đắn thì lại ăn nói bậy bạ, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới rượu chè.
Ba người cười nói trò chuyện một hồi. Yây Môn Khánh gọi Đại An Nhi tới bảo:
- Ngươi sang xin gặp Hoa nhị gia, thưa rằng mồng ba tháng sau ta có lễ kết nghĩa giữa mười người anh em, ta mời Hoa nhịgia làm anh em kết nghĩa. Ngươi nhớ kỹ Hoa nhị gia trả lời sao rồi trở về thưa lại cho ta. Nếu Hoa nhị gia không có nhàthì thưa với Nhị nương cũng được.
Đại An Nhi vâng lời bước ra. Ứng Bá Tước nói:
- Tới hôm đó thì mình định tới chùa miếu nào đây?
Tạ Hy Đạ nói:
- Chùa miếu thì ở đây chỉ có một hai cái. Chùa của tăng sĩ thì có chùa Vĩnh Phúc, miếu của các đạo sĩ thì có miếu NgọcHoàng. Tùy mình muốn tới đâu thì tới.
Tây Môn Khánh nói:
- Việc kết nghĩa không phải do các vị tăng sĩ đứng ra làm được, vả lại mấy hòa thượng đó tôi không quen biết. Chi bằngtới miếu Ngọc Hoàng, nơi đó rộng rãi yên tĩnh mà Ngô Đạo quan lại là chỗ quen biết với tôi.
Bá Tước bảo:
- Ca ca nói rất đúng, các hòa thượng của chùa Vĩnh Phúc thì chỉ quen biết với Tạ tẩu tẩu mà thôi.
Hy Đại cười:
- Chỉ được cái ăn nói bậy bạ, đây là chuyện đứng đắn, đùa được hay sao?
Ba người đang nói cười vui vẻ thì Đại An Nhi trở về thưa:
- Hoa nhị gia không có nhà, tôi thưa với Nhị nương, Nhị nương vui lắm, bảo rằng: "Nếu Tây Môn Đại gia có lòng như vậythì không nhận lời sao được, để rồi ta sẽ nói lại để phu quân ta sang bái kiến Đại gia đúng ngày". Sau đó lại mời tôiuống trà.
Tây Môn Khánh bảo hai bạn:
- Hoa nhị ca quả có người vợ lanh lợi mà hiền thục.
Ba người tiếp tục uống trà nói chuyện. Lát sau Bá Tước và Hy Đại đứng dậy nói:
- Thôi, mình tạm biệt, chúng tôi còn đi báo tin cho các anh em khác biết, để họ lo chuẩn bị phần của họ. Còn ca ca thìnên tới nói trước với Ngô Đạo quan một tiếng.
Tây Môn Khánh nói:
- Biết rồi, tôi cũng không dám lưu giữ đâu.
Nói xong tiễn hai người ra cửa. Ứng Bá Tươc đi được vài bước bỗng quay lại bảo:
- Hôm đó phải cho mời con hát mới được.
Tây Môn Khánh gật đầu cười:
- Phải có chứ, để anh em mình cùng vui một bữa.
Ứng Bá Tước cùng Tạ Hy Đại nắm tay mà đi.
Tới ngày mồng một tháng Mười, Tây Môn Khánh dậy sớm, đang ngồi trong phòng với Nguyệt nương thì có gia nhân bên nhà họHoa sang. Tây Môn Khánh cho vào. Tên gia nhân nhà họ Hoa bước vào, tới trước mặt Tây Môn Khánh quỳ lạy rồi đứng sangmột bên mà thưa:
- Tôi là gia nhân bên Hoa gia, xin bái chào Tây Môn Đại nhân. Hôm nọ Đại nhân có cho người sang nói điều kết nghĩa,nhưng hôm đó gia gia tôi có việc vắng nhà, nên không tự mình nghe điều thỉnh giáo được. Gia gia tôi xin y lời là mồngba sẽ dự buổi họp mặt, nên hôm nay sai tôi mang phần đóng góp sang trước, Đại nhân chi dùng vào việc kết nghĩa, nếuthiếu thì xin cho biết để gia gia tôi bù thêm.
Nói xong đưa một cái hộp màu vàng lên. Tây Môn Khánh đứng dậy mở hộp ra thấy bên trong có một lạng bạc bên nói:
- Như thế này là nhiều rồi, không cần phải thêm nữa. Đến ngày kia thì mời chủ ngươi dậy sớm tới miếu họp mặt với anhem.
Tên gia nhân vâng lời, vừa định quay ra thì Nguyệt nương gọi lại rồi sai đại a hoàn Ngọc Tiêu đem bánh trái ra cho,đoạn bảo:
- Đây là ta cho ngươi để về uống trà. Ngươi về thưa với Hoa đại gia và nương nương là Tây Môn Đại nương.nói rằng hômnào rảnh, mời nương nương sang đây chơi.
Tên gia nhân nhận quà, cúi đầu lạy tạ quay ra. Đúng lúc đó thi gia nhân của Ứng Bá Tước là Ứng Bảo Giáp mang phần đónggóp tới. Đại An Nhi dẫn ứng Bảo Giáp vào chào lạy rồi nói:
- Gia gia tôi đã thu góp đầy đủ các phần của các gia gia, sai tôi đem tới, xin Đại nhân nhận cho.
Nói xong đưa một cái hộp lên. Tây Môn Khánh mở ra thấy trong có tám gói, bèn đưa cho Nguyệt nương mà bảo:
- Nàng giữ lấy để ngày mai tới miếu mà mua các vật cần dùng.
Ứng Bảo Giáp cáo từ. Tây Môn Khánh đứng dậy định vào thăm Trác Nhị Thư, nhưng chưa kịp tới phòng Trác Nhị Thư thì NgọcTiêu đã chạy theo thưa:
- Đại nương mời Đại gia ra nói chuyện:
Tây Môn Khánh gắt:
- Chuyện gì sao vừa rồi không nói?
Đoạn quay ra phòng ngoài. Nguyệt nương thấy chồng ra thì chỉ vào mấy bao giấy cười bảo:
- Chàng coi phần đóng góp đây này. Chỉ có Ứng nhị gia là đóng được một tiền hai xu, còn mấy người khác thì người nămxu, người ba xu, mà toàn là thứ xấu. Nhà mình quả chưa thấy thứ tiền xấu như thế này bao giờ. Bây giờ mình nhận của họthì cũng mang tiếng, chi bằng hoàn lại cho họ là hơn.
Tây Môn Khánh nói:
- Trả lại thì cũng bỉ mặt người ta, mình không dùng được thì thôi, có thiếu hụt thì mình ứng ra, cũng chẳng đáng baonhiêu.
Nói xong liền quay vào nhà trong thăm Trác Nhị Thư.
Hôm sau là ngày mồng hai, Tây Môn Khánh xuất ra bốn lạng bạc, gọi gia nhân tới sai mua một con lợn, một con dê, năm vòrượu Kim Hoa, gà vịt và vàng hương. Sau đó lại gọi ba gia nhân là Đại An Nhi, Lai Bảo và Lai Hưng đem năm tiền tới miếuNgọc Hoàng rồi dặn:
- Các ngươi tới thưa với Ngô sư phụ rằng ngày mai ta sẽ phiền Ngô sư phụ tổ chức giùm lễ kết nghĩa đệ huynh, xin sư phụlàm giúp trước một lá sớ kết nghĩa, ngày mai ta sẽ xin sang sớm. Nhớ nói là xin sư phụ lo liệu tươm tất giùm cho. BọnĐại An Nhi vâng lời kéo nhau đi, lát sau trở về thưa:
- Chúng tôi đã đưa tiền và thưa rõ ràng, sư phụ dã hoan hỷ nhận lời.
Tây Môn Khánh gật đầu.
Hôm sau là ngày mồng ba. Tây Môn Khánh dậy sớm tắm rửa sạch sẽ rồi gọi Đại An Nhi vào bảo:
- Ngươi sang mời Hoa nhị gia qua đây ăn sáng rồi cùng ta tới miếu. Sau đó ngươi sang Ứng nhị gia, giục Nhị gia gọi mọingười đến miếu cho sớm.
Đai An Nhi vâng lời đi ngay. Nhưng Hoa Tử Hư vừa được mời sang thì Ứng Bá Tước đã dẫn mọi người tới, gồm Tạ Hy Đại, TônThiên Hóa, Chúc Thật Niệm, Ngô Điển ân, Vân Lý Thủ, Thường Trĩ tiết.
Bạch Lãi Quang. Kể cả Tây Môn Khánh và Hoa Tử Hư thì cả thấy là mười người.
Mọi người vái chào nhau. Bá Tước nói:
- Bây giờ đi là được rồi.
Tây Môn khánh nói:
- Thì để ăn sáng uống trà xong đã, mời tất cả anh em vào ngồi một phút.
Mọi người vui vẻ kéo vào. Lát sau ăn sáng xong, Tây Môn Khánh mũ áo dẹp đẽ cùng mọi người lên đường tới miếu NgọcHoàng.
Từ xa đã thấy cổng miếu sừng sững, bên trong là miếu điện nguy nga, xung quanh tường cao bao bọc. Từ cổng miếu có bacon, đường dẫn vào trong, theo con đường giữa mà vào thì tới chính điện, đi vòng sau chính điện, qua một cái cổng nhỏnữa là tới đạo viện của Ngô Đạo quan. Hai bên cổng nhỏ này cỏ xanh hoa thắm, lại có những cây tùng cây bách xanh tươi.Mặt trước của đạo viên là ba gian đại sảnh, đó là nơi sớm tối Ngô Đạo quan làm công quả. Sảnh đường trần thiết rất tềchỉnh, ở giữa là cửa Hạo Thiên Kim Khuyết của Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên treo tử phủ tinh quan, lại có treo hình bốnĐại Nguyên soái là Mã, Triệu, Ôn Hoàng.
Ngô Đạo quan đã ra trước đại sảnh nghiêng mình đón tiếp, mời bọn Tây Môn Khánh vào uống trà.
Mọi người vừa uống trà vừa ngắm quang cảnh trong đại sảnh. Bạch Lãi Quang nắm tay Thường Trĩ Tiết, đứng dậy bước tớicoi hình Mã Nguyên soái, thấy oai phong lẫm lẫm dị thường, tướng mạo cực kỳ uy nghi, nhưng lại thấy vẽ ba cặp mắt. BạchLãi Quang bèn bảo Thường Trĩ Tiết:
- Ca ca này, như vậy là làm sao? Gì mà tới những mấy cặp mắt vậy?
Ứng Bá Tước nghe được bèn bước tới bảo:
- Dốt qúa, Nguyên soái có nhiều cặp mắt là để nhìn các đệ đó, để xem các dê có điều gì xấu xa không?
Mọi người nghe vậy đều cười. Thường Trĩ Tiết lại chỉ vào hình Ôn Nguyên soái mà bảo:
- Hình vẽ này cũng kỳ quái khác thường.
Bá Tước cười lớn gọi:
Sùng Trinh là niên hiệu của Minh Nghệ Tông (1628-1644), ông vua cuối cùng của nhà Minh |