Dương-Qua lòng vừa thư thái được một chút thì mệt mỏi từ đâu đã tràn về. Nó mơ mơ màng màng rồi cũng
ngủ thiếp đi.
Một lúc sau, nó cảm thấy đau nhói ở sau lưng nơi huyệt "tiếu yêu" nó giật mình tỉnh dậy và có ý định vùng lên chống đỡ
lại, nhưng đã có một bàn tay nắm chặt lấy cổ nó khiến không còn cựa quậy được.
Nó khe khẽ nghiêng đầu liếc mắt nhìn thì thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đang mỉm cười đứng bên cạnh.
Lúc đó Tiểu-long-Nữ cũng bị điểm huyệt mất rồi.
Nguyên do chỉ vì Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ cả hai đều chưa có kinh nghiệm giang hồ nghĩa hiệp, và khinh địch nên đã sơ
ý không đóng kín căn phòng bằng đá.
Bởi vậy Lý-mạc-Thu mới biết được phòng ngầm này, và đột nhập vào, hành động theo ý muốn.
Lý-mạc-Thu cười nhạt bảo:
- Khá thiệt! Chỗ này là một căn phòng để nghỉ ngơi tốt nhỉ! Hai đứa nhỏ này đã lẻn vào đây để hưởng hạnh phúc với nhau
đây. Sư muội! Bây giờ cô còn chối cãi vào đâu. Đã biết thân biết phận liệu bề mà nói đi, hay là vẫn cố giữ kín. Nếu có
bề nào thì đừng trách ta.
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Tôi biết hết cả rồi. Tôi nhứt định không bao giờ nói cho chị biết.
Lý-mạc-Thu biết Tiểu-long-Nữ vốn là một người cương nghị không mấy ai bì kịp, lúc sinh tiền sư phụ phải nhượng nàng ba
lần rồi tiến tới cương quyết, đối phó gấp chín lần, cũng chẳng hề lay chuyển được. Nhưng nay, trước công việc quan
trọng đến sinh mệnh của mình, chẳng lẽ lại không dùng hết mọi áp lực để bức sách nàng làm theo ý muốn. Nghĩ vậy,
Lý-mạc-Thu rút ra hai cái ngân châm vứt xuống đất, tiếng kêu tinh tinh!
Nàng nói:
- Ta đếm từ một đến mười, nếu cô không nói thật, ta sẽ cho cô nếm mùi vị hai cây ngân châm này.
Tiểu-long-Nữ mắt nhắm nghiền lại, như chẳng thèm để ý gì đến lời Lý-mạc-Thu.
Lý-mạc-Thu đếm một... hai... ba... bốn
Dương-Qua nói lớn:
- Nếu cô nương tôi mà biết được lối ra thì việc tôi và cô nương tôi lại ở đây làm gì?
Lý-mạc-thu cười nhạt nói:
- Ta biết rằng thế nào căn phòng này cũng có ngả bí mật thoát ra ngoài được. Sở dĩ các người còn ở lại đây là để nghỉ
ngơi lấy lại tinh thần sức lực, để rồi lại đi nữa chớ gì?
Nói xong nàng lại đếm năm... sáu... bảy... tám... chín...
- Sư muội! đếm chín rồi, cô có nói hay không?
Lúc bấy giờ, một luồng gió lạnh đột nhiên tạt vào ngọn nến trên tay Hồng-lăng-Ba, làm phụt tắt.
Tiểu-long-Nữ cười gằn một tiếng rồi nói:
- Tôi đã ngủ nghê được chút nào đâu, vừa mới vào đây được một lát.
Lý-mạc-Thu cố làm ra vẻ bình tĩnh nói:
- Thôi! Thế thì được!... Ta đã đếm đủ đến mười rồi, cô đừng có trách tôi nghe! Độc tính của ngân châm này là bí thuật
của môn phái ta do sư phụ phu nhân truyền cho ta, vì cô ngoan cố nay ta phải tặng cô để cô được biết ý vị nó ra
sao.
Nói đoạn, cô ta cúi xuống lấy đầu ngân châm chà lên huyệt "Tướng đài" của Dương-Qua.
Tiểu-long-Nữ bị chà lên huyệt "Huyền Cơ" nơi trước ngực.
Tiểu-long-Nữ vốn là người gan dạ và điềm tĩnh dị thường, cũng phải oằn oại vì chất độc của ngân châm, đã theo huyệt dạo
xâm nhập vào toàn thân. Từ da thịt đến xương tủy và các cơ thể lúc bấy giờ như ngàn vạn con kiến rần rần cắn ở khắp
nơi. Thực là chưa có một hình phạt nào trong thiên hạ có thể làm cho người đau đớn kỳ lạ đến thế được. Đó là một thứ
độc dược độc đáo của bản môn, dĩ nhiên ngay trong bản môn đã phải có thứ thuốc giải độc, nhưng khốn nỗi cả hai người
đều đã bị điểm huyệt, không còn cử động được nữa, nên vô phương cứu giải.
Lý-mạc-Thu vốn ác độc, tàn nhẫn, nên thản nhiên ngồi ở dưới đất, đợi coi những biến chuyển phát hiện từ hai người xem
độc dược đã thấm vào nội tạng chưa. Cô ta vẫn phân vân chẳng biết Tiểu-long-Nữ có chịu tiết lộ những bí mật trong mộ
đài không. Chỉ trong chốc lát là huyết mạch Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã chạy khẩn cấp, người đã phát nóng. Cô ta biết
độc dược đã thấm vào nội tạng thì không còn nói đến việc cứu giải được nữa.
Dương-Qua khe khẽ nói:
- Thưa cô nương, hay là cô đem những bí mật của Mộ đài nói đi thôi. Hai người này chẳng ngần ngại gì mà không dùng đủ
mọi ngón độc để hại ta đó.
Tiểu-long-Nữ cũng khe khẽ nói:
- Chính thế. Họ là tay ác độc nhất đời.
Thoáng nghĩ tới những đường bí mật ra khỏi mộ đài, nàng ngẩn đầu nhìn lên trên nóc nhà chỗ có ghi các hình đố.
Năm xưa, Vương-trùng-Dương đã thề không trở lại mộ đài. Ông tiên tri Lâm-triều-Anh thế nào rồi cũng qua đời trong Mộ
đài.
Đối với người đã say mê đắm đuối vì yêu mình, ông không khỏi thấy bâng khuâng thương nhớ dù rằng bà thi ân với ông khá
nhiều mà cũng kết oán với ông chẳng ít. Nghĩ và cảm như thế ông bỏ lời thề xưa, đã dấn bước theo mật đạo nhập Mộ đài,
lén cho á Hoàn là đệ tử của bà hay đường lối xuất mộ và đồng thời nhìn lại di thể của người bạn thân thiết trước kia đã
cùng mình rong ruổi cuộc đời giang hồ nghĩa hiệp.
Ông đau khổ vô cùng, nức nở khóc; khi đi một lượt khắp ngôi Mộ đài mà xưa kia ông đã mất bao nhiêu công trình, sau bao
nhiêu năm tháng xây dựng nên. Thấy bà Lâm-triều-Anh đã vẽ hình mình ra trên mặt một bức tường, rồi lại thấy trên đỉnh
hai căn phòng bà đã đi khắc võ thuật. "Ngọc-nữ tâm-kinh", thực là tinh vi ảo diệu, mỗi ngón đều để chế khắc mỗi ngón
của Toàn-Chân võ thuật, mặt ông tự nhiên xậm lại và lập tức ông rút lui ra khỏi chốn Mộ đài.
Ông một thân lủi thủi vào chốn núi sâu, kết lập một thảo lư.
Ba năm liền không rời bước khỏi núi, để nghiên cứu cho tinh tường võ thuật "Ngọc-nữ tâm-kinh" tìm ra những ngọn để phá
lại, tuy cũng đã thành hẳn một võ thuật có hệ thống uẩn súc, lòng ông bực bội đối với trí tuệ thông minh dị thường của
bà Lâm triều Anh, đành phải chịu thua và bỏ không nghiên cứu thêm nữa.
Sau 10 năm, nhân cơ luận hội kiếm ở núi Hoa Sơn có đoạt được bộ "Cửu âm chân kinh" là một sách hiếm có, kỳ lạ về vô
học, ông thề chẳng luyện tập theo kinh sách này. Nhưng để thỏa mãn tính háo kỳ, ông lại đọc qua ít lần.
Võ nghệ của Vương-trùng-Dương thời ấy đã là đệ nhứt trong thiên hạ. Vì thế, chỉ đọc qua những thiên trong Cửu âm chân
kinh là ông đã quán thông được hết những tình tiết bí ảo trong đó sau 10 ngày suy ngẫm.
Bỗng nhiên quán thông, ông sung sướng ngẩng mặt lên trời cười hả hê một hồi, rồi trở lại Mộ đài, tìm đến căn phòng bằng
đá bí ẩn nhứt, khắc lên nóc nhà những yếu chỉ của Cửu âm chân kinh mỗi ngón đều phá được võ thuật Ngọc-Nữ tâm kinh của
bà Lâm-triều-Anh. Ông lại còn ghi mấy câu ở dưới ngón tay trong bức hình của ông với ngụ ý muốn cho hậu sinh, nếu ai có
duyên lành sẽ biết được rằng võ thuật của Toàn-Chân phái không phải hoàn toàn bị võ thuật Ngọc nữ tâm kinh chế khắc
được hết cả, và vị tổ sư sáng lập ra Toàn chân môn phái đã sáng tạo ra được võ pháp lại rồi. Lúc rời khỏi mộ đài ông có
ghi lại trên một phiến đá trên núi Chung-Nam những lời ai điếu của ông với bà Lâm-triều-Anh, hiện còn để lại bút
tích.
Lúc đó ông hồi tưởng lại những lời ông đã ghi chú ở bức họa hình ông tại cổ mộ đài, thấy rằng lời lẽ ẩn ý khó hiểu e
rằng hậu nhân thuộc cổ mộ môn phái vị tất đã có người lãnh hội nổi. Nhưng nếu nói rõ ra thì chẳng hóa ra là làm tiết lộ
cho đời biết môn đệ nhứt kỳ thư trong thiên hạ sao?
Trong lúc ông đương phân vân như thế, có một phu nhân nước mắt chảy ròng, nức nở khóc, đến trước ông, dáng điệu rất sầu
thảm. Ông hỏi thì được biết người ấy là họ Tôn, xưa kia đã cùng với bà Lâm-triều-Anh là đôi bạn cùng phiêu bạt giang hồ
đã từng cứu giúp nhau. Phu nhân họ Tôn được biết bà Lâm-triều-Anh đã qua đời nên thượng sơn đến cầu xin cho được làm lễ
ai điếu tại Mộ đài để giữ trọn tình bằng hữu.
Vương-trùng-Dương thấy phu nhân kia nếu quá động, bèn chỉ cho đường đi nước bước khả dĩ vào được mộ đài.
- Ta có mười sáu chữ truyền cho, phải nhớ kỹ lấy và chẳng được tiết lộ cho ai hay. Đến giờ lâm chung chỉ được trao lại
cho người chủ nhân mới của mộ đài thôi.
Phu nhân kia cúi đầu tạ lễ, rồi lẩm nhẩm đọc thật kỹ ghi khắc vào lòng. Bà theo đường đi nước bước vào mộ đài để làm lễ
ai điếu. Rồi vì cảm nghĩa ả Hoàn bà ta mà ở lại luôn trong Mộ Phu nhân đó chính là Tôn bà vậy.
Tôn bà đem mười sáu chữ kia viết vào một miếng vải trắng khâu vào trong chiếc áo bông mà lúc lâm chung đã trao lại cho
Dương-Qua, mười sáu chữ ấy là: mười sáu chữ mà Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ đã đọc được khi xét chiếc áo lông cừu.
Tôn bà không phải là người thông minh cho lắm nên không hiểu được dụng ý nói đến những điều bí ẩn chứa trong căn phòng
bằng đá kia.
Vương-Trùng-Dương và Lâm-triều-Anh đều là hai bực kỳ tài vang danh một thời đã để lại cho đời những ngón tuyệt diệu.
Đáng tiếc thay tình vừa chớm nở, thì vì truyện tranh luận võ nghệ mà đôi bạn trở nên nghịch với nhau. Nếu hai bên hợp
tác được thì sự nghiệp để lại cho đời sau còn đẹp đẽ hơn nhiều.
Vì nghịch nhau như thế nên về sau người thì phải xuất gia mặc áo vàng làm một kẻ tu hành, người thì ôm uất hận cho đến
lúc chết tại chốn Mộ đài.
Từ chỗ yêu thương đã trở thành thù nghịch.
Dẫu đã xa nhau nhưng còn vương vấn tơ lòng.
Ôi chữ tình càng gỡ càng vương. Thương nhau nhiều, ghét nhau lắm, càng oán nhau thì tơ lòng càng buộc chặt. Tâm trạng
đôi tri kỷ cứ mãi mãi như thế cho đến ngày cùng đem thân chôn chặt xuống tuyền đài.
Lâm-triều-Anh thì sáng lập ra "Ngọc-nữ tâm-kinh" để chế khắc Toàn Chân võ thuật. Vương-trùng-Dương cũng chẳng chịu
thua, lấy Cửu âm chân kinh chống lại. Vương-trùng-Dương tự thấy mình phải thua kém bà một bực, nên từ đó ông càng khiêm
nhường, thường nhủ các đệ tử phải khắc kỷ hư tâm, sống âm thầm chẳng nên xuất đầu lộ diện.
Tiểu-long-Nữ mới nhìn qua đã biết được lối thoát bí mật của Mộ đài, khổ nỗi đã bị điểm huyệt nên có biết cũng chẳng làm
gì được nữa. Nàng hối hận sao lại mải mê truyện trò với Dương-Qua, mà chẳng sớm tìm lối thoát bí mật kia ra khỏi Mộ
đài. Toàn thân nàng nhiệt độ mỗi lúc một tăng. Liếc mắt nhìn lên đồ hình trên nóc nhà, nàng thở dài. Đưa mắt về phía
bên mặt nàng đọc thấy mấy câu về "Cửu âm chân kinh" bỗng nhiên nhìn thấy 4 chữ "giải huyệt bí huyết", mắt nàng đột
nhiên sáng ngời lên. Nàng lạnh lùng vừa đọc vừa suy ngẫm, bỗng nhiên nàng tỏ ra vui mừng vô hạn. Nếu người không tự kềm
chế được thì có lẽ nàng đã thốt nên những tiếng reo mừng.
Đại khái thì bí quyết ấy nói về những nguyên lý khi luyện nội công làm cho hỏa khí tụ đan điền, các đường huyệt đạo đều
ngưng lưu thông vì đã dồn vào tới đó. Còn đối với người đã từng tập luyện tới "Cửu âm chân kinh" các kinh lạc đều luân
lưu điều hòa, thông hoạt từ trên xuống dưới từ dưới lên trên, nhứt định không thể bị ai điểm huyệt được.
Cứ lý ấy mà suy ra, huấn giáo này đã là bùa cứu mạng cho Tiểu-long-Nữ trong lúc khốn đốn này.
Nàng suy đi nghĩ lại, thấy dầu mình có khai thông được huyệt đạo cũng chẳng ích gì vì làm sao mà địch nổi sư tỷ
Lý-mạc-Thu. Nàng lại đọc kỹ đoạn kinh văn ghi trên nóc nhà, có đoạn chỉ giáo cho phương thế, nếu biết và sử dụng được,
thì hễ xuất thủ là có thể chế ngự được các ngón của Lý-mạc-Thu. Huấn giáo chỉ từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, cả
thảy hai đoạn, công phu luyện tập thực là dễ dàng, nhưng cũng phải 10 ngày mới thành thuộc được.
Lòng nàng miên man suy nghĩ, ngoảnh nhìn về phía Dương-Qua thấy hắn đang rét run lên bần bật. Có lẽ giờ này chất độc
của ngân châm đang thấm vào mãnh liệt.
Những lúc nguy cấp thường là những lúc phát sinh tâm trí sáng suốt. Chính giữa lúc khốn này nàng đã âm thầm học đến
nhập tâm hai đoạn "giải huyệt bí quyết" và "bế khí bí quyết" của Cửu âm chân kinh.
Nàng ghé mồm vào tai Dương-Qua nói rất nhỏ cho nó biết.
Dương-Qua vốn dĩ là người thông minh, lanh lợi nên nói sơ là nó đã hiểu hết.
Tiểu-long-Nữ vẫn khe khẽ nhấn mạnh:
- Trước hết phải làm cho thông huyệt đạo.
Dương-Qua khẽ gật đầu.
Lúc bấy giờ căn phòng bằng đá tối đen như mực, hai thầy trò Lý-mạc-Thu ở lại đó để đợi hai người bị độc được hành hạ cơ
thể rang chín người đi, rồi phải nói ra tất cả những điều bí ẩn chứa đựng trong Cổ mộ đài, nào có ngờ đâu họ đang âm
thầm tìm cách giải nguy và đối phó lại.
Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua cứ theo y như lời chỉ dạy của Vương-trùng-Dương để giải huyệt bí quyết.
Hai người đã có sẵn cái vốn về nội công kha khá chỉ còn việc theo lời dạy về cách vận khí khác thường, là trong giây
lát đã làm thông hoạt được huyệt đạo.
Nàng nhè nhẹ thò tay lấy ở bọc ra hai viên "giải độc linh đơn" khẽ chuyền một viên đưa vào mồm Dương-Qua còn một viên
thì nuốt đi.
Nàng cử động rất là nhẹ nhàng khoan thai. Lý-mạc-Thu chẳng biết có pháp thuật gì mà tự nhiên nhận thấy, vừa hai người
trở lại bình thường chạy xô lại vừa quát:
- Chúng bây làm trò gì thế!
Tiểu-long-Nữ xuất chưởng, nhè nhẹ vỗ vào đầu Lý-mạc-Thu. Đó là một ngón đã vận dụng điện lực của võ thuật Ngọc-nữ
tâm-kinh, một ngón võ thượng thặng.
Lý-mạc-Thu hết sức kinh sợ vì việc xảy đến quá bất ngờ nên phải vội vàng nhảy lại phía sau để cho áp lực giảm sút phần
nào.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Chúng tôi muốn ra khỏi đây! Sư tỷ thế nào! Có ra hay ở?
Lý-mạc-Thu vẫn tự phụ là người võ nghệ cũng như tài sắc vô địch trong giang hồ, nay lại bị một người vô danh tiểu tốt,
đàn em, dở chưởng lực ra đối địch lại, thì lấy làm uất giận lắm. Tuy thế cô ta chẳng dám giở giọng tự cao tự đại, sợ
phật ý, nàng không dẫn ra khỏi căn phòng nầy thì sẽ bị đánh chết ngộp ở chốn này sao.
Cô ta nghĩ bụng: mình võ nghệ ăn hẳn sư muội, cứ làm thế nào cho nó dẫn mình ra khỏi, lúc đó hãy sửa trị cũng chẳng
muộn gì. Nó cũng có ít ngọn hiểm độc lạ thường, nhưng những ngọn ấy cũng chẳng ăn thua gì. Nghĩ vậy cô ta cố nén giận,
cười khẽ nói:
- Cô tiến bộ lắm rồi đó, ta phục cô gấp bội. Thôi, bây giờ dẫn chị đi ra, nghe cô!
Dương-Qua rất tinh khôn, muốn nhân dịp ấy làm lạc hai thầy trò Lý-mạc-Thu mỗi người đi mỗi ngả. Nó cũng tươi cười
nói:
- Làm sao mà dẫn cả hai người cùng ra một lúc được. Cô nương tôi chỉ dẫn được từng người một, đem người này ra rồi lại
trở vào đón người kia.
Lý-mạc-Thu cũng tinh ý mắng át:
- Thôi mày! Hẳn tạm im cái mồm đi!
Tiểu-long-Nữ chưa thông cảm được tinh ý của Dương-Qua.
Tuy vậy nàng vẫn chiều theo ý nó đáp lại Lý-mạc-Thu:
- Chỉ dẫn một người một thôi. Hai người, cùng đi một lúc thì không được.
Dương-Qua cười ra vẻ cởi mở thú vị lắm, nói:
- Thưa sư bá, sư bá cho sư tỉ tôi theo chúng tôi ra trước có được không ạ!
Lý-mạc-Thu nuốt giận chẳng thèm đáp nửa lời. Dương-Qua lại tiếp:
- Thôi sư bá đã bằng lòng rồi, chúng ta cùng đi cho sớm. Cô nương đi trước dẫn đường tiếp đến là tôi và sau đó ai muốn
nối chân theo cũng được.
Bấy giờ Tiểu-long-Nữ đã lãnh hội được ý Dương-Qua, chỉ mỉm cười không nói gì cả, nắm tay Dương-Qua bước dần ra khỏi
thạch thất. Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba tuy không nói gì với nhau nhưng cả hai đều ái ngại chỉ sợ bất thình lình thầy
trò Dương-Qua vận chuyênr máy móc đổ sập một cửa đá ngăn cách chia ly mỗi người một nơi thì nguy to. Cho nên cả hai đều
sát cánh nhau đứng song song tại cửa, lăm le chen chân bước đi trước.
Thấy thái độ của học trò như thế, Lý-mạc-Thu nổi nóng quát lớn:
- Nghiệt súc, mi toan chen lấn cùng ta chăng?
Nói xong, nàng đưa tay trái nắm chóp đầu Hồng-Lăng-Ba.
Hồng-Lăng-Ba vốn biết sư phụ mình hễ đã ra tay thì vô cùng hiểm độc cho nên vội lùi ra sau một bước, lòng vừa lo sợ vừa
bực tức không dám nói một lời.