Campeche là một thành phố vàng vọt của bang Yucatán, Mexico, với cái vịnh nằm không đúng chỗ. Phố 55
là một con phố chật hẹp, nóng bức, đầy tiếng còi xe buýt và mùi rác rưởi. Thứ âm thanh mà họ gọi là nhạc rakjano
– tôi thì đoán đó là một loại nhạc rốc với bốn trăm nhịp nện trong vòng một phút - vẳng ra từ một chỗ nom có vẻ như cửa
hàng tạp phẩm. Tôi bước vào, mua bốn dây nước trái me, mỗi dây sáu hộp, năm túi malvavisco - tức là kẹo dẻo, -
năm cây nến to và cả một tút thuốc lá ba số, tất cả đựng trong một chiếc túi giấy màu nâu như cách đây hàng chục năm.
Tôi đi bộ sang bên kia đường, bước qua một cánh cửa nhỏ nằm ở góc phía nam nhà thờ Iglesia de San Francisco. Mặt tiền
và phần lớn gian giữa giáo đường được xây từ năm 1694 nhưng mới được quét sơn lại, tối thiểu là lần thứ một trăm, vì
vậy, trông nó như một cây bu-lô vừa thay lớp vỏ mới. Bên trong thì ám cái mùi hương lành lạnh và nhạt nhẽo thường thấy
trong các nhà thờ. Trước khi kịp suy nghĩ, tôi đã nhúng tay vào bình nước và làm dấu thánh. Xin thề những gì con nói là
sự thật, - tôi nghĩ trong đầu. cái thói quen phải giói từ hồi nhỏ đến giờ vẫn không bỏ được. Cha Manuda vẫn đang đứng
cạnh bệ thờ để thử bộ loa đài mới - được mua bằng tiền của chúng tôi, tôi đoán vậy – nhưng chiếc âm-li lớn được đặt quá
gần mi-crô nên khi ông ta thử đánh một nốt cao trên cây đàn, nó dội ầm ầm lên khắp các mặt tường đá được sơn hồng. Ông
ta không nhìn tôi. Tôi đi qua hai bà xơ già đội khăn trùm và khoác áo chùng trắng rộng thùng thình, đó là hai trong số
vài nữ tu còn sót lại của dòng thánh Clares Nghèo Khó, trước kia từng rất đông đảo. Theo những gì tôi được biết, trong
mấy trăm năm trở lại đây, dòng tu này đã tự làm mình lụn bại vì từ chối thỏa hiệp vấn đề giảm bớt khổ hạnh. Chắc họ hơi
quá kiên tín và các bà xơ đã dành hết thời gian để câm lặng, quỳ dưới sàn đá, ăn cháo lúa mạch suông và và thủ dâm với
nhau. Ngoài tôi ra, khách viếng thăm chỉ còn hai bà già người Tzotzil quấn khăn len, mặc huipile (Bộ trang phục
đặc trưng của người Maya Tzotzil) ba mảnh dệt màu đỏ và xanh lá cây. Chỉ là trang phục thường nhật. Bên ngoài vòm cửa,
bốn con chim bồ câu xơ xác lượn quanh.
Tôi đi qua gian giữa lên cung thờ ngang trên tầng hai và dừng lại trước một bức tranh khắc gỗ còn khá mới họa hình
thánh Teresa xứ ávila, nữ thần bảo hộ của cờ Hiến tế (tôi nghĩ là đã nói chuyện này rồi, nhỉ?). Bà cũng là vị thánh bảo
trợ cho môn cờ vua và những người mắc chứng đau đầu, nhiệm vụ cuối cùng chắc khiến bà ấy bận rộn phải biết. Tôi cắm một
cây nến lên giá, thắp lên bằng chiếc bất lửa của Không Đời Nào và đặt bốn cây còn lại bên cạnh. Tôi đi sang cung thờ
ngan trên phải và bước vào một phòng nguyện nhỏ.
Căn phòng bị choán bởi một cỗ quan tài màu kem đã rạn nứt, nắp bịt kín nhưng hai bên có hai ô kính. "El mero ataud
della santísima Abadesa Soledad", một vì thầy tế đã viết dòng chữ đó, nó có nghĩa là "Quan tài của Nữ trưởng tu
viện Soledad được Chúa che chở". Bà ta là một vị thánh của địa phương không được nhắc đến trong kinh sách. Lúc này chỉ
có hai chúng tôi ở đây. Tôi cúi mình xuống, và mặc dù tôi có vấn đề với các bà xơ từ hồi còn nằm ở bệnh viện từ thiện ở
San Cristobal nhưng tôi vẫn phải cố gắng lắm mới ghìm được cảm giác thúc giục muốn quỳ xuống. Qua nhiều thế kỉ, tấm
kính đã mở hết cả, nhưng tôi vẫn có thể trong thấy một cái đầu nhỏ trơ sọ như của đứa trẻ lên năm, được trùm khum khum
dưới một tấm ren móc hình mạng nhện rất nghệ thuật, với lớp da vàng xỉn như miếng bột nhào dùng làm vỏ bánh hoa quả,
trũng xuống quanh hàm răng xám xịt nhô lên. Ý nghĩ bỏ chạy ra ngoài xuất hiện nhiều lần trong đầu tôi, nhưng tôi đã
dùng đến mánh "có cái đếch gì đâu" và cuối cùng cũng vượt qua được. Thực ra, tôi chỉ cần tự nhắc đi nhắc lại với mình
một cách đầy tin tưởng rằng: "Có cái đếch gì đâu cơ chứ, đời chẳng qua là thứ bỏ đi", thậm chí chẳng cần đến bài hít
thở đặc biệt để trấn tĩnh.
Tôi ra khỏi đó, đi men theo lan can thánh đường sang phía bên kia, chỗ sau bệ thờ. Mình đúng là thằng khờ khạo, tôi
nghĩ. Họ đâu có một thứ kỳ công đến thế. Nhưng kiểm tra cho chắc chắn cũng chẳng hại gì. Dù sao đây cũng chỉ là một
cuộc diễn tập thôi, tôi nghĩ. Tình hình đã được kiểm soát. chẳng có gì to chuyện hết. Đừng sợ. Guarde sus
pantalones(Giữ lấy, đừng để tụt quần - tiếng Tây Ban Nha)
Ổn rồi.
Cuối cung thờ ngang phía nam có một cánh cửa thép nho nhỏ, tôi mở cánh cửa đó ra và bước vào khu nhà ở cũ kỹ dành cho
mục sư, tự nhiên cứ như đây là nhà tôi vậy. Phía cuối khu nhà có một khoảnh sân trong và cuối khoảnh sân đó là một cái
chái trước kia từng là tu viện của các nữ tu Nghèo Khó. Tôi đi theo lộ trình đã diễn tập vài lần, leo mười tám bậc cầu
thang nhỏ xíu zích zắc để lên tầng hai, chỉ là một căn sảnh dài, trần thấp với năm cánh cửa nhỏ ở mỗi bên.
Grgur đang ngồi thườn thượt trước cửa căn phòng số 4, xỉa ngón tay lên bàn phím một chiếc máy tính xách tay trông như
của quân đội. Hắn diện một chiếc áo phông có cổ, quần dài màu xanh nước biển xám hiệu Ralph Lauren, cứ như giám độc phụ
trách một tuyến đường biển không bằng. Tôi vẫy tay. Hắn gật đầu, mắt vẫn giương trừng trừng. Mừng làm sao khi có anh
cùng tham gia, - tôi nghĩ bụng, - anh làm không khí ở đây sáng bừng hẳn lên đấy! Một đống máy móc các loại bày la liệt
trong sảnh, trong đó có hai màn hình rộng ba mươi inch, hai cái hộp có vẻ như thùng loa cỡ lớn, một thanh thép
dài bốn feet có tay cầm và hai món đồ gì đó đặt trên giá ba chân, nom như chảo ra-đa di động thông thường, tức
là những đĩa hình parabol nông làm từ plexiglas (Một loại thủy tinh hữu cơ trong suốt, nhẹ, bền thời tiết), đường kính
khoảng ba mươi inch, với vài chiếc hộp lớn hình trụ bọc xốp đặt phía trước, chỗ đáng ra dành cho chiếc micrô.
Tôi đi vòng qua Grgur để bước vào một căn phòng màu trắng bé tí tẹo. cửa sổ để mở cho lũ ruồi bay vào, nhưng nơi này
vẫn giống một phòng tắm hơi mốc meo. Có một chiếc giường gấp, một cây thánh giá gắn tượng chúa Giê-su chịu khổ nạn
treoo trên tường – còn mới nhưng rẻ tiền, - một máy đọc điện tâm đồ và một bộ thiết bị truyền máu. Rùng cả mình. Khiếp
quá. Bốn bức tường trắng, giường gấp và ống truyền máu thình lình gợi lại cho tôi hình ảnh năm lên sáu, tại bệnh viện ở
San Cristobal…
Thôi quên đi.
Căn phòng cũng chật kín người. Taro và cô trợ lý Ashley của ông ta, người mà họ gọi là Ashley 2, chứ không phải Ashley
Thieu như tôi tưởng lúc đầu, để phân biệt với các Ashley khác, đang ngồi dưới sàn nhà, giữa đống máy tính con, Marena
và bác sĩ Lisuarte thì đứng nói chuyện dưới khung tò vò cạnh cửa sổ. Hitch, người quay phim – chúng tôi gọi ông ta như
vậy vì trước đây ông ta từng là một đạo diễn điện ảnh đầy tham vọng, nom hơi giống Alfred Hitchcock (Đạo diễn phim
người Mỹ gốc Anh) nhưng trẻ con và đậm nét Tây Ban Nha hơn – đang gài chiếc mi-crô lên nóc khung cửa ra vào. Tôi
mang đống đồ ăn vặt của mình đi mời khắp phòng, nhưng chẳng ai muốn ăn hết. Tôi móc ra hộp nước quả cuối cùng còn sót
lại. Nó có bộ phận làm lạnh tự động và dòng chữ "Mát lạnh!" bên trên. Lúc trước tôi cứ sợ rằng nó sẽ nhạt nhẽo và có vị
na ná như tất cả các loại đồ uống thời thượng ngày nay, nhưng… không! Nó vẫn giữ được dư vị đắng rất đặc trưng, sự kết
hợp ngon tuyệt của các chất este và an-đê-hit, y như thời cách đây mấy chục năm, trước khi các nhà pha chế trở nên khéo
tay quá mức cần thiết. Bây giờ làm sao mua được thứ này ở Mỹ nữa? Bác sĩ L. nói chúng tôi nên vào việc thôi, và bây giờ
là thời điểm thích hợp không kém bất cứ thời điểm nào khác.
Tôi trả lời ô-kê.
Ối giời ơi. Ghê quá.
Thôi nào, bình tĩnh. Vì chúa, hãy tỏ ra là người chững chạc. Tôi cởi giày và ngồi khoanh chân lên giường. Có lẽ nó vẫn
kê đúng hướng như cái đệm rơm ngày xưa và cây thánh giá thì ở đúng chỗ mà bà sơ Soledad đã nằm khi bà ta chết trong
phòng này. Dĩ nhiên, làm thế này có phần hơi quá. Chúng tôi nhất thiết phải làm việc này ở đúng chỗ này. Vị trí trong
không gian thực của căn phòng này vào thời ấy đến nay đã dịch chuyển hàng triệu dặm, vì vậy, về mặt lý thuyết, tôi có
thể ngồi ở Stake, ở phòng thí nghiệm tại Orlando hay bất cứ đâu cũng chẳng có gì ảnh hưởng. nhưng người ta cứ có cảm
giác rằng độ sai lệch sẽ giảm bớt phần nào nếu tôi được ngồi ở đúng vị trí mà tôi phải đến ở quá khứ, cũng với nhưng
bức tường gạch bùn trát vữa ấy, cũng cái sân trong ấy và tiếng ồn của thành phố ấy. Chỉ có điều, thời ấy, quanh đây, dê
và cừu hiển nhiên là đông hơn người. Tôi sẽ quay về đúng thời điểm này trong ngày, nhưng không cùng thời điểm này trong
năm.
- Anh không phiền vì tôi có mặt ở đây chứ, phải không? – Marena hỏi.
Tôi trả lời rằng không sao, và thêm rằng ngày xưa tôi cũng rất thích xem mẹ tôi vặt lông gà.
Tuy nhiên, tôi không nghĩ Marena để tai nghe tôi nói. Một tiếng rừ rừ đầy hăm dọa thình lình phát ra từ phía sau đầu
tôi. Bác sĩ L. thậm chí không dùng đến kéo, bà ta chọc thẳng chiếc tông đơ vào mớ tóc rậm rì của tôi và làm nó như cái
máy gặt lúa vậy, mà có khi nó được thiết kế dựa theo thứ ấy thật cũng nên.
- Chuyện với cha Tên-anh-là-gì đến đâu rồi?
- Lão ta đúng là một cái nhọt, - Marena đáp. – Chúng tôi đã đề nghị trả số tiền đủ để mua cả cái thành phố phải gió
này, thế mà họ vẫn không muốn.
- À, họ ngại các vị có âm mưu trần tục gì đó với nơi này ấy mà.
- Thật thế, chúng tôi phải gọi cho sếp của lão ấy và nhận chu cấp thành lập cả một trường học đấy.
- Các vị nói chuyện với Chúa à?
- Không, không, với hồng y giáo chủ, cái lão mặt chim ấy, - cô ta nói. – Tôi cả rằng nếu là Chúa thì ông ấy chỉ lấy giá
bằng một nửa thôi. Nó sẽ được đặt tên là "Trường Kỹ thuật hệ mười hai năm dành cho các nữ tu đồng trinh với giọt máu
thiêng liêng được ban phước lành" hay cái của nợ gì đó.
- Thật phí tiền.
Bác sĩ Lisuarte đã cắt xong nửa đầu bên trái.
- Phải. Thế mà chúng tôi còn phải quẳng thêm vào hai hòm của để biếu xén nữa đấy.
Công cuộc xén tóc mất cả thảy hai phút. Tôi thấy oải cả người, không phải vì phải bắt đầu công việc với bộ dạng như
Samson (Nhân vật trong cuốn kinh thánh cổ của người Do Thái, có sức mạnh thần kỳ nằm trong mái tóc) khi bị cắt trụi tóc
hay vì tôi quá tin vào những điều mê tín của người da đỏ về mái tóc, dù là trong tiềm thức thôi, mà là vì chiếc mũ bằng
vỏ trứng đà điểu của tôi lại đang treo ngoài kia.
- Xong, - Lisuarte nói. Tôi sờ tay lên trán và ngập ngừng xoa ngược lên khắp đầu. Tôi tưởng bàn tay tôi như tàu thăm dò
mặt trăng Lunik 3. Khi lần đến phần xa nhất…
- Hê, anh để tóc thế này hợp đấy, - giọng của Michael Weiner. Tôi không nhìn thấy lão ta đi vào và đương nhiên lão
không hề gõ cửa hay đánh tiếng gì hết. Tôi đáp cảm ơn. Lão vỗ vỗ vào lưng tôi. Phì, đồ con lừa. Sao ở đây lắm sự thân
thiện thế không biết. Michael hỏi Taro xem mọi người chuẩn bị đến đâu rồi. Taro trả lời rằng họ đã sẵn sàng. Bác sĩ
Lisuarte thì bảo chờ thêm năm phút nữa. Hình như đây là công việc quen thuộc hàng ngày đối với họ.
- Tốt rồi, nào… dượt lại một chút nhé? – Michael nói bằng cái giọng dẫn chương trình truyền hình của mình. – Bà xơ
ngoan đạo đã nghoẻo vào giờ cầu kinh thứ ba, tức là khoảng chín giờ sáng, ngày 28 tháng 11 năm 1686.
Có phải làm truyền hình thì phải nhăn nhỏ và xấc xược thế không? – tôi nghĩ bụng. Đồ quái ác. Đồ ngu. Thằng cha này
hoàn toàn trơ tráo và sẽ luôn như vậy.
- Bà ta đã không rời căn phòng này từ ít nhất một tháng trước, - Weiner nói tiếp, hay đúng hơn là luyên thuyên tiếp,-
Nhưng đến ngày 24 bà ta vẫn còn tỉnh táo vì bà ta đã ký di chúc của mình vào ngày hôm đó. bản di chúc có khoảng ba điều
khoản. Nó còn cho biết bà ta sẽ chịu lễ ban thánh thể lần cuối vào ngày 27. Ngoài ra, không còn thông tin gì nhiều để
tìm hiểu. tôi nghĩ tốt nhất chúng ta nên quay lại thời điểm buổi sáng ngày hai mươi nhăm.
Ừ, phải, chúng ta đấy, - tôi nghĩ. Đồ hoang tưởng. Không phải ông đang lên truyền hình đâu.
- Chúng ta sẽ đến vào thời điểm giữa giờ cầu kinh buổi sáng và giờ cầu kinh buổi chiều. đó là lúc tất cả bọn họ đều
phải ở một mình trong phòng riêng, vì thế, về mặt lý thuyết, sẽ không có ai trong phòng này.
- Hy vọng thế, - Marena nói.
- Tôi sẽ kiểm tra mạch máu trên sọ cho anh, - bác sĩ Lisuarte nói. Tôi đáp xin mời, miễn sao bà ta đừng chạm tay vào da
đầu tôi. Nhưng bà ta vẫn làm thế. Thật quái gở cái cảm giác có ngón tay lần đầu trên da đầu mình, nơi chưa từng có bàn
tay nào sờ vào, trừ bàn tay của mẹ tôi. Ý tôi là mẹ đẻ của tôi, khi tôi còn rất nhỏ. Trong đầu tôi thoáng hiện ra hình
ảnh tôi ngồi trong lòng mẹ, bà xoa xoa vết xước trên trán tôi, rắc vào đó ít tro sạch để cầm máu. Lisuarte hỏi đã bắt
đầu tiêm cho tôi và đếm ngược được chưa. Tôi trả lời được rồi. Nào, bắn vào đi. Bà ta bóc hai ống kim tiêm mới. Ra
không phải là tiêm máy. Tôi nhắm tịt mắt lại. Như phần lớn những người mắc chứng máu khó đông, tôi rất sợ những đồ vật
nhọn.
- Nào, - bà ta nói, - tôi bắt đầu với bốn mươi mi-li-gam Adderall (Một loại thuốc có tác dụng kích thích thần kinh)
nhé?
- Vâng, - tôi đáp. Tôi không nói với bà ta rằng với tôi ngần ấy thuốc chỉ có tác dụng bằng một tách con chè xanh.
Bà ta lau khử trùng mặt trong đùi trái tôi và luồn mũi kim vào. Au! Tiếp đó tôi nhận thêm 3,8 cc ProHance. Đó là một
dung dịch chứa chất chống thuận từ gọi là Gadoteridol. Nó sẽ khiến mọi hoạt động nhỏ nhất của não hiện rõ trên màn hình
theo dõi, giống như những vết nứt nẻ trên môi cô ả Angelina Jolie vậy.
- Được rồi, anh ngả người ra đi, - bà ta nói. Tôi làm theo. Một đống gối xấu xí và rẻ tiền nhún lên nhún xuống dưới cái
đầu nhẹ bẫng của tôi. Tôi đang mặc một chiếc quần thể thao COCACAF (Tên viết tắt của Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và
Caribe) và một chiếc áo phông in hình trò chơi Neo-Teo, tất cả đều là đồ đi mượn, trong lòng cảm thấy vô cùng tự ái. Bà
ta hỏi tôi đã sẵn sàng ngồi liền sáu tiếng chưa. Tôi đáp rồi. bà ta hỏi tôi có muốn đi vệ sinh không. Không, tôi đáp.
Nếu cần thì tôi sẽ hỏi, tôi nghĩ thầm trong bụng, và tôi sẽ bảo bà cầm bô. Cái con mụ lắm chuyện.
- Được rồi, - bà ta nói, - tôi sẽ dán lên người anh vài điện cực nữa. – Có tiếng xì xì và cảm giác một chất lỏng lành
lạnh được bội lên chỏm đầu tôi.
- Anh muốn cầm theo cái này không? – Marena hỏi. Ý cô ta nói mớ tóc của tôi. Cô ta đã ý tứ gom nó lại. Tôi trả lời rằng
có, cảm ơn, tôi muốn dùng số tóc ấy để bện một con hình nhân xúi giục tự tử.
Lisuarte và A2 nhét đầu tôi vào một vật như cái mũ tẩm – nó được làm từ một loại vải sợi sản xuất từ các chai sô-đa cũ,
mà theo tôi đoán là vô hình với các thiết bị điện tử - rồi mở một chiếc va li lớn hiệu Zero Halliburton. Marena giúp họ
nhấc ra một thiết bị điện não đồ từ kí di động, đó là một cái vòng kim loại tráng men dày, kích thước bằng chiếc bánh
xe Vespa, với hai sợi cáp lớn thòi ra. Chúng tôi gọi nó là "Toa-let" vì người ta phải chụp nó lên đầu và phun hết những
gì có trong não vào nó. Nhưng nhìn không được giống cho lắm. Thực tế, trong căn phòng này chẳng có thứ gì giống lắm với
cái gọi là công nghệ cao. Taro bảo tôi rằng các thiết bị nối vào người tôi là 90% những công nghệ mà họ đã sử dụng từ
thập kỷ 70 và rằng họ chỉ việc kết hợp chúng với nhau. Họ đặt cái vòng to xù ấy xuống gối. tôi khẽ rướn đầu lên sát khe
mở. Họ xoay nó xuống khít vào đầu tôi và dùng các mảnh bọt biển đính cái mũ vài vào các lỗ hổng, vì thế mép trong của
cái vòng chạm sát vào lông mày tôi. Lisuarte hỏi thế này có quá thoải mái không? Tôi đáp rằng thế này vừa hay đủ thoải
mái. Bà ta nối dây cáp vào và bấm nút khởi động. có tiếng o o khe khẽ phát ra từ thiết bị điện não đồ, chạy vòng quanh
với tốc độ 380 dặm một giờ. Lần trước, khi đeo thử thứ này, tôi đã sợ rằng nó sẽ dò ra một mảnh thép trong xoang hay
đâu đó trong người tôi và đẩy bật ra qua nhãn cầu, nhưng rõ ràng là trong người tôi không có mảnh vàng nào. A2 kéo lại
một chiếc giá ba chân được chèn bao cát, với một màn hình máy tính lớn gắn trên đòn treo và đặt thêm một màn hình PLED
ngay dưới cây thánh giá.
- Anh nhìn rõ màn hình máy tính không? - A2 hỏi.
- Gần hơn tí nữa đi, - tôi đáp. Cô ta dích nó về phía tôi và quay nó chúc xuống. - Tốt rồi. - Chất xám của tôi đang ở
trên đó, dưới dạng những lớp trong suốt, giống như hình cái túi xách hiện lên trên máy quét của hải quan sân bay
vậy.
- Taro? – Marena gọi, - ông bắt đầu chưa?
- Chúng tôi đang gửi đi tín hiệu đầu tiên rồi, - ông ta đáp.
- Anh cảm thấy thế nào? – Lisuarte hỏi. Vài tiếng trước, bà ta đã cho tôi một liều hỗn hợp Aripiprazole và Lamotrigine
để giúp tôi suy nghĩ tỉnh táo hơn và không ám ảnh. Tôi không chắc nó có tác dụng hay không, nhưng tôi vẫn trả lời rằng
rất tốt.
- Tốt rồi, chúng ta chuẩn bị quét hình, - Lisuarte thông báo.
Tôi giơ một ngón tay cái lên.
- Anh sẽ ổn thôi, - Marena nói, - Nhớ nhé, chỉ cần có động lực thôi.
- Ừ, - tôi đáp.
- Tôi đã lấy áo ngực của mình ra đặt cược cho anh đấy.
- Hay thật, - tôi đáp.
Hờ, - tôi nghĩ bụng, - câu ấy hơi khêu gợi đấy.
Từ mấy ngày nay, hình như Marena và tôi đã tiến khá gần đến ranh giới của sự thân mật. Hoặc ít nhất thì tôi cũng có cảm
tưởng như thế. Nhưng té ra chúng tôi chỉ tiếng gần đến đường tiệm cận của nó thôi, và có thể sẽ chẳng bao giờ đến được
đích. Và với riêng tôi, việc ranh giới đó không thể hay chưa thể vượt qua đang trở thành vấn đề ngày một quan
trọng.
- Tôi sẽ bắt đầu TMS bên bán cầu não trái của anh, - Lisuarte nói. Ý bà ta là kích thích điện từ qua hộp sọ, phương
pháp gây rối loạn hoạt động điện não tại một số vùng nhất định của não nhằm kích thích các vùng khác hoạt động mạnh hơn
và lóe sáng thường xuyên hơn, nhờ vậy, cấu trúc hoạt động sẽ hiện rõ hơn.
- Nào, đến lúc dành cho sự riêng tư rồi, - Marena nói. - Cảm ơn các vị.
Taro và những người khác ra ngoài. Trong vài giờ tới, sẽ chỉ có Marena, Lisuarte và tôi trong căn phòng này. Song đương
nhiên những người còn lại vẫn dọi theo chúng tôi qua băng ghi hình và có thể cho vài lời nhận xét khôn ngoan bố đời
nữa.
- Rồi, - Marena nói. – Anh muốn bắt đầu chưa?
Tôi đáp rồi. Tôi đã đề nghị Marena đọc lời thoại thay cho Lisuarte. Nhóm CTP – viết tắt của từ Giao thức chuyển đổi ý
thức – đã tổ chức bỏ phiếu về vấn đề này và quyết định rằng như vậy cũng không sao vì suy cho cùng, tất cả những việc
ấy chủ yếu vì lợi ích của tôi. họ muốn thử thiết bị mới này trước khi bắt tay vào sự kiện chính. Nhưng vấn đề là nếu
thiết bị này không hoạt động thì chuyện đó cũng chẳng nói lên được điều gì. Có thể chỉ là xơ Soledad quá ốm nên không
đi lại được hay gì đó. Và dù nó có không hoạt động thì chúng tôi vẫn cứ phải tiếp tục dự án này. Tuy nhiên – theo các
bác sĩ tâm thần bậc thầy làm việc cho Warren - nếu nó hoạt động tốt thì lợi ích cho ngành tâm thần học sẽ vô cùng
lớn.
Tôi nằm hẳn xuống giường. Lisuarte phủ lên người tôi một tấm chăn mỏng. Tôi phỏng đoán rằng nó sẽ giúp tôi được thư
giãn. Hừ. Thực tình tôi đã bắt đầu cảm thấy hơi bồng bềnh rồi. Tôi tập trung nhìn vào cây thánh giá, cố tạo cho mình
trạng thái như người ở thời Trung cổ. Trên chiếc khố quấn quanh mình bức tượng chúa Giê-su bằng nhựa có một nếp gấp
võng xuống khá to và nó đang động đậy. Hãy quằn quại vì con, hỡi Đức Chúa. Hãy nâng lồng ngực lên. Nâng bàn chân lên.
Nâng cây thánh giá chết tiệt ấy lên đi, cái đồ thần thánh bẩn thỉu. Ngài đúng là một vị chúa tồi. Ối giời ơi!
Giời ơi! Giời ơi! Mặt đất rung chuyển rồi! Cửa mả mở ra rồi! Các âm hồn trỗi dậy rồi! Ối giời ơi, tôi bị xé toác ra làm
đôi! Từ đầu đến chân! Ố.. ối..giời…ơi…
- Được rồi, chúng ta bắt đầu nhé, - Marena nói. Cô ta đang nhai kẹo cao su ni-cô-tin, nhưng vẫn nói được rành mạch với
cái đống ấy ở trong mồm, - Anh có thể cho chúng tôi biết anh đã làm gì ngày hôm qua không?