Hàng mi dài của Sylvana khẽ rung rung chạm vào vai tôi giống như những lúc cô ấy nằm mơ. Nhưng không
phải là Sylvana mà là một thứ gì đó khác. Quỷ bắt nó đi? Con gì đó! Con gì đó còn sống! Nào, tóm lấy nó. Khỉ thật, nó
bám vào mu bàn tay tôi, chạy ngược lên cẳng tay. Rũ nó đi, rũ nó đi! Tôi đờ cả người vì nỗi khiếp sợ bản năng. Một con
thằn lằn nhỏ màu nâu rơi độp xuống từ cổ tay tôi và chạy thoăn thoắt qua tấm ni-lông trải dưới đất. Ghê quá! Về già tôi
lại ra đâm thành thị hóa. Không quen với những con vật sống và những nơi bẩn thỉu nữa. Tôi lấy điện thoại ra xem giờ: 3
giờ 4 phút chiều. Chết cha. Muộn rồi.
Tôi đang ở cái chỗ chết toi nào thế này nhỉ? Ánh sáng thì lờ mờ một màu tím than quái gở. Tôi nheo mắt nhìn lên trần.
Nó cao, hình vòm có đòn chìa.
Ồ, phải rồi phế tích Ix. Michael nói đây là một trong những cung điện còn sót lại.
Tôi lột cái túi ngủ phải gió ra khỏi người và ngồi dậy. Hình như mọi người đều đã ra ngoài. Căn phòng này là một
audiencia- phòng khách- lớn kiểucổ Maya, rộng 50 feet, sâu 9 feet, đỉnh trần cao hai mươi
feet, với một ô cửa duy nhất, khá cao, nằm chính giữa bức tường dài ở hướng tây. Cánh cửa được phủ một lớp vải
dầu màu xanh tím than. Vào thời cổ Maya đã từng có một bức bích họa lớn trên bức tường cuối phòng mà ngày nay vẫn còn
sót lại vài phần.
Người ta chỉ có thể thấy lờ mờ một hình người nhỏ bên phía tay trái đang leo lên những bậc cầu thang, thấy loáng thoáng
một căn điện bên tay phải với những hình trang trí xoắn ốc tạo hình nữ thần Cóc Đấtnhô ra. Nhưng gần đây, nhất là trong
mấy thập kỷ gần đây, nước đã thấm vào và rửa trôi lớp vữa ở đó. Tuy vậy, căn phòng vẫn khá khô ráo với thời tiết mùa
này. Đội tiền trạm của Ana đã xúc hết phân dơi đổ đi nhưng tôi vẫn ngửi thấy cái mùi ẩm lại. Họ cũng chuyển sẵn phần
lớn thiết bị vào đây. Một phần ba diện tích phía bắc phòng chất đầy ống khoan dầu, ống truyền dẻo, các hộp đựng mũi
khoan, bốn động cơ Honda 90 mã lực, sáu chiếc đòn bẩy Volvo và hai chiếc hòm lớn màu vàng trong đựng hai con rô bốt đào
hầm và lấy mẫu mà công ty dịch vụ dầu khí Schlumberger đã đặc cách cho chúng tôi mượn, môt trong hai con đã được lắp cả
đèn và máy quay phim. Nơi này chả khác gì một cửa hàng tiêu thụ đồ ăn trộm,có điều là ở thời kỳ tiền Columbia. ở gần
chỗ ngủ hơn có hai chiếc máy tạo khí gas không gây tiếng ồn, một lô máy ổn áp, một dây cáp to tướng chạytheo hướng bắc
ra phía cửa đến Gò A, hai chiếc tủ lạnh phòng thí nghiệm cỡ vừa, một hộp chân không, một máy đóng gói chân không., mấy
cuộn lá nhôm để đựng các mẫu phóng xạ cácbon, một hộp găng tay, một ống dẫn khí nén còn nguyên đai nguyên kiện, hai máy
bơm nước, một máy ép (tất cả đều có thể mua tại cửa hàng bán thiết bị an toàn phòng thí nghiệm), hai chiếc hộp đựng cưa
đá và lưỡi cưa dự phòng(cũng là của công ty Schlumberger) và các dụng cụ khảo cổ khác như thuổng, xẻng, máy dán nhãn,
đèn ác quy, các cuộn xốp hơi, hộp đựng đèn mỏ, đèn thăm dò, đi-ốt phát quang, chổi, bút lông và sàng –nhìn chungđủ cho
cả một khóa sinh viên và thực tập sinh đào bới trong mười năm liền chứ không phải cho một cuộc nghiên cứu có tính chất
lý thuyết. Có đến một nửa trong số này sẽ không baogiờ được sờ đến – tôi nghĩ. Hừ, lần sau, đừng…
Khoan đã.
TONTODID.(Tonto làm)
Hừm, cũng có thể là DON TOD IT…
Hoặc là… DON’T DO IT.(đừng làm thế)
Tôi đã cố cảnh báo mình.
Trời ơi.
Đừng quay về quá khứ. Đừng tin đám người này. Đừng nhúng tay vào trò điên rồ này. Đừng làm thế.
Hừm.
Tôi nằm đó và ngẫm nghĩ, mắt liếc nhìn cái bóng màu xanh dài, chính là tấm vải dầu căng ngang cánh cửa duy nhất của căn
phòng cổ. Răng tôi hơi lập cập một tí. Sao lại "đừng làm thế"? sao tôi không viết rõ thêm một tí chứ? Vì đó là một việc
làm ghê tởm trước chúa chăng? Vì nó không hay ho gì chăng? Vì nếu nán lại viết kỹ thêm một tí, tôi sẽ bỏ qua tập cuối
Gossip Girl chăng?
Chậm hiểu đến thế là cùng – tôi tự rủa. Mất đến bốn ngày tiềm thức mới giải đoán được một câu ghép chữ đơn giản đến như
vậy. Đáng ra có thể dùng điện thoại mà giải ra trong bốn phút sáu giây.
Và đêm nay tôi lại sắp có hẹn với một người chết.
Bây giờ thì mày làm thế nào đây? Rút lui? Trốn vào bụi rậm với Không Đời Nào và chạy về Honduras? Giả vờ suy sụp thần
kinh? Hay đơn giản là nói "không"?
Chả trách Tony Sic chả buồn rầu mấy tí khi biết tôi sẽ đi thay hắn. Lúc đó, tôi thực sự cảm thấy hơi ngại, còn hắn thì
dửng dưng như không và không hề lúng túng. Có lẽ hắn đã nghĩ lại. Jed, mày là thằng ngu, thằng ngu…
Thôi đừng đi, chả ích gì đâu.
Phù. Được rồi.
Tôi gãi mắt cá chân và nhìn thấy một chiếc tất màu đen bị kéo ra khỏi túi, lăn qua đầu và rơi xuống tấm nệm của tôi đêm
qua. Bên trong chiếc tất có năm gói nhỏ buộc túm lại với nhau bằng dây chun. Tôi dùng răng nanh xé gói cà phê và dốc cả
đám bột ấy lên lưỡi. Kinh quá! Không sao. Tôi rửa trôi nó xuống họng bằng hai viên kẹo dẻo. Tôi xé gói thuốc tổng hợp
sát khuẩn lao, khuẩn Salmonella, SARS và HIV, lau khắp mặt và mọi bộ phận cơ thể mà tôi với tới được mà không sái tay.
Sau đó tôi mở cái gói đề "Không cần chải" bằng chữ to màu xanh nhợt. Tôi dùng nó để lau ba mươi mốt cái răng trong
miệng và lật mặt kia của tờ giấy nhám để xát cho sạch lưỡi. gói thứ tư đựng một miếng gạc dài sáu inch, rộng bốn
inch tẩm sữa tắm làm ẩm da, giúp trung hòa tác dụng làm khô da của thuốc sát trùng. Tôi xé nốt miếng gạc chống
bọ chét ra khỏi bao và quấn nó quang ðầu gối phải. ðộng vật chân ðốt và bệnh máu khó ðông chung sống với nhau không
ðýợc hòa bình lắm. Tôi vo tất cả đống vỏ bao thành một cục tròn, nhét vào túi áo, nhét tai nghe vào lỗ tai trái và bò
ra ngoài qua cánh trái của tấm vải dầu.
- Làm một chén trà không? - Michael hỏi,phúc tổ là không phải qua micro. Lão ta, Lisuarte và gã Commado ngồi trên một
tấm vải trải dưới đất như đang đi pinic. Tôi không nhìn thấy Không Đời Nào nhưng cậu ấy cũng báo trước là sẽ đi thám
thính xung quanh. Tôi đáp cảm ơn, tôi uống rồi. Nhưng câu hỏi của Michael giống như một lời mời nên tôi ngồi xệp xuống
cạnh họ. Chúng tôi đang ngồi dưới bóng râm của tòa nhà dài, trước đây từng là phía tây của một khu nhà xây quây thành
hình tứ giác rộng tám mươi yard; theo lời Michael, nó có thể là một phần lâu đài của thị tộc Mèo Rừng Ix.
Các tòa nhà kia bị cây bụi che phủ, nom không khác gì những gò đống nhỏ, tòa nhà mà chúng tôi đóng đại bản doanh cũng
sẽ như thế nếu người của ES không dọn quang lối vào. Khu sân trong nom có vẻ như được dùng làm bãi trồng ngô cách đây
vài năm. Còn bây giờ, tầm ma và dương xỉ mọc kín mít. Toàn bộ công trình này nằm lưng chừng một triền núi trước đây
được đẽo thành hình bậc thang, cách con sông một phần tư dặm, và cách kim tự tháp lớn nhất của quần thể - tức công
trình mà Sylvanus Morley (Nhà khảo cổ học người Mỹ) vĩ đại đặt tên là Gò A, và ngày nay, với sự tiến bộ trong
ngành nghiên cứu chữ khắc cổ, chúng ta biết nó là mul (có nghĩa là ngọn đồi, suy rộng ra là "kim tự tháp" hay "núi
lửa"(chú thích của tác giả)) của dòng họ Mèo Rừng- chừng một trăm dặm về phía nam. Nhưng với cả rừng lá lẩu um tùm
như thế này, anh chẳng thể nhìn thấy cả dòng sông lẫn mul, thậm chí chẳng thấy giời đâu nữa, chỉ thấy những mảnh
xanh xanh rời rạc.
Cạnh Michael có một chiếc hòm bằng da rái cá to tướng, để mở, đựng đầy các gói thạch, mật ong, hộp nước quả, bim bim
ngô, kẹo thanh và nhiều thứ đồ ăn khác. Tôi nhặt lấy một gói đồ ăn sẵn hiệu Land O’ Lakes và một hộp giấy tráng kim
loại cỡ gần nửa lít ghi chữ Undine, tôi đoán nó là một loại đồ uống tăng lực thể thao giàu positron kiểu mới
nhất. Tay trái tôi vướng phải cái túi đựng thuốc và vitamin đủ loại, nhưng tôi vẫn xoay xở để bóc được miếng dán trên
nắp hộp. có tiếng xì xì phát ra khi mẩu CO2 đẩy bật cái nút chèn và lập tức làm mát chất lỏng. Tôi đổ vốc thuốc vào
miệng, chiêu nước và phát hiện ra tay trái bị dính chặt vào lớp băng bám ngoài vỏ hộp, tôi gỡ tay ra, cầm lại cái hộp
và nuốt trôi nắm thuốc với hai phần ba hộp nước, chả biết là nước nặng, nước nhẹ hay cái nước chết tiệt gì. Bàn tay
Michael chìa cho tôi cái gì đó. Một thanh granola (loại thức ăn trộn từ lúa mạch, mật ong và hạt dẻ). Tôi xé
giấy bọc và cắn rôm rốp. Trên giấy bọc viết:
Bổ dưỡng! Chúng tôi đem nó đến cho bạn. với lượng đạm giàu gấp rưỡi loại granola thông thường. Không cần bận tâm năng
lượng đến từ đâu, chỉ cần bận tâm ta sẽ dùng nó vào việc gì. Chúng tôi, Bear NakedTM Granola, tin rằng sức
mạnh thật sự nằm ở tinh thần coi nơi kết thúc là điểm xuất phát mới. hãy đặt mục tiêu cao hơn một chút. Không quan
trọng đích đến cách bao xa, miễn là bạn luôn hướng đến nó. Và chính granola sẽ đưa bạn đến đích.
Hay đấy, tôi nghĩ. Uống nốt một phần ba chỗ nước còn lại trong hộp, bóp bẹp cái vỏ, vứt vào cùng đống túi và vỏ bao,
rồi ném cái nút chèn vào túi đựng rác riêng.
- Au, - tiếng Marena vang lên đâu đó, - mẹ kiếp.
Tôi thận trọng ngó ra milpa. Ana và Marena đang đánh nhau giữa bãi. Không họ đang tập hup kwon do (môn võ
phát triển từ taekwondo) hay gì đó. Ana đang dạy cho Marena một miếng đá thấp rất hiểm. Không khác gì chương trình
"Những đoạn phim bạo lực nhất nước Mỹ"- tôi nhận xét thầm.
- Bột ngô không? Mich ae l hỏi.
Xin lỗi – tôi nghĩ.
- Xin lỗi? – tôi hỏi.
Lão ta chỉ vào một gói Arco mở sẵn. tôi nhòm vào. Eo ơi, sau có vài thập kỷ mà đồ ăn của Corn Maiden chán hẳn đi như
thế này sao.
- Sao lại phải ăn cái này?- tôi thắc mắc.
- À, thỉnh thoảng tôi vẫn mời những người không quen đi bộ ăn món này. Họ thường phát cáu nếu phải ăn thịt hộp.
- Ồ, phải. nhưng không cảm ơn.
- Anh chỉ ăn cái món bơ ấy thôi à? - gã Commando hỏi tôi.
- Hở? - tôi nhìn xuống cái vỏ bánh. – à … ờ thì…
- Anh chỉ ăn bơ không thôi à?
- Ờ… có những thói quen khó bỏ lắm, - tôi đáp.
- Này, - hắn nói, - tôi cá là anh đoán được trong túi tôi còn bao nhiêu điếu thuốc lá đấy. Hắn vỗ vỗ vào bên ngực
trái.
- Không tôi đoán làm sao được. Tôi có phải máy chiếu từ xa đâu.
- Chúng tôi vẫn còn hai gói bánh mì dẹt đậu xanh đấy. –Michael nói.
Tôi từ chối và hỏi xem latrina (nhà xí) được đặt ở đâu. Hắn chỉ về phía bắc cánh đồng. Tôi đứng dậy và đi ra
đấy.
- Nhớ xóa dấu vết nhé, - Ana nhắc nhở qua tai nghe. Tôi gật đầu tỏ ý cảm ơn. Đồ không ra con chẳng ra thằng. Tôi cóc
cần biết cô đã loại bỏ bao nhiêu kẻ đối địch cho Bill Carsey. Tôi mò mẫm tiến lên phía trước, hơi trượt chân một tí.
Tôi đoán là Ana từng là một trong rất nhiều những nhân vật nữ từng phục vụ trong binh chủng lính thủy đánh bộ và muốn
tham gia chiến đấu, và khi không được chính phủ Mỹ cho phép, họ rời quân ngũ và làm thuê cho các chính phủ khác dễ tính
hơn hoặc cho tư nhân. Dù sao chắc chắn hai bên vai cô ta thường đeo quân hàm khá to. Mẹ nó chứ. Tôi không rút được tờ
giấy chùi ra khỏi bao. Giá cứ ở yên trong túi ngủ có hơn không…
Tai tôi run lên bần bật.
- Khởi động hệ thống, - tôi ra lệnh.
Hệ thống được mở.
- Kozo đây, -Michael nói- có tin tốt, về xem nhé.
Tôi uể oải lết về, chui vào audiencia. Hitch và gã Commando đứng ngay sát cửa, loay hoay chắp nối các thiết bị
âm thanh. Michael và Lisuarte ở phía cuối gian, cúi lom khom cạnh một màn hình máy tính.
- Chúng tôi nhận được tin báo từ văn phòng chính, - Mich ae l thông báo. Tôi ngồi xuống. - Anh biết gì về các dấu hiệu
chạm khắc trong gian điện của ahau không?
- Có, - tôi đáp. Tôi thuộc lòng chúng, mà tôi biết lão biết thừa chuyện ấy.
- Ừ, phải. Vậy thì, lễ tái đăng quang, nghi lễ đổi thủ phủ k’atau ấy, được tổ chức vào một buổi sáng sớm của năm
trị vì thứ hai mươi, phải không? Năm 664?
- Chính xác, tôi đáp. Khi ấy, chúng tôi sẽ tiến hành chuyển tín hiệu trong vòng hai mươi phút trước lúc mặt trời mọc,
khi Chim Ruồi Có Nanh 9 ngồi trong gian điện, chờ đợi đến giây phút xuất hiện trước dân chúng tập trung trên quảng
trường.
- Anh nhớ San Mart í n không?
- Có. - Tôi đáp.