Thánh Tuyền Tầm Tung - Sưu tầm

Chương 19: Sừng quỷ (1)


Dịch giả: gaygioxuong

Cánh rừng nhiệt đới này quanh năm nóng ẩm mưa nhiều, nhờ vào sông Amazon mà căng tràn nhựa sống. Trong rừng có vô số động thực vật hiếm thấy sinh trưởng. Hơn thế nữa, con sông Amazon còn được gọi là "Lá phổi của trái đất". Nếu không phải tận mắt nhìn thấy, dù có nói thế nào tôi cũng không tin trong rừng Amazon xanh um tươi tốt lại có một ngọn đồi chết không có lấy một ngọn cỏ - sào huyệt của Malik.

So với mệt mỏi và đói khát, sự bám đuổi phía sau của đám người nguyên thủy Cramer thật sự phiền toái hơn rất nhiều. Mặc dù năng lực trí tuệc của đám người nguyên thủy này rất thấp, vũ khí lạc hậu, nhưng năng lực đánh du kích lại có bài có bản hẳn hoi. Cứ lúc nào chúng tôi dừng chân nghỉ ngơi, bọn chúng lại xông ra đánh lén, khi chúng tôi định phản kích thì chúng lại biến mất không còn tăm tích. Cả đêm chúng tôi không được nghỉ ngơi, phải liên tục tập trung tình thần đề phòng bọn chúng. Đến lúc rạng sáng, ai nấy đều buồn ngủ đến mức díp cả mắt. Vương Thanh Chính dựa vào một cái cây, bảo rằng nghỉ ngơi một chút, vậy mà chỉ nháy mắt sau đã ngủ vùi. Đầu Trọc phải cõng y bám theo sau chúng tôi, hết sức vất vả. Rất may là tới lúc hừng đông, chúng ta cuối cùng cũng leo lên tới sào huyệt của Malik. Vùng núi cằn cỗi đáng sợ này lập tức tạo ra sự rung động không gì sánh kịp về mặt thị giác đối với chúng tôi.

Khắp xung quanh là màu xanh ngăn ngắt, chỉ riêng nó là trọc lóc từ chân lên đỉnh, giống như một bộ xương đã bị róc hết da thịt, rút hết gân mạch, đứng trơ trọi giữa rừng nhiệt đới bạt ngàn. Đất đai dưới chân chúng tôi khác hẳn với khu vực dưới dưới chân núi, những viên đá vôi nhỏ nằm rải rác ở khắp mọi nơi. Lâm Phương chỉ lên đỉnh núi, nói: "Trên đỉnh có lẽ chính là nơi các đời thầy mo Cramer an nghỉ. Nếu các anh có hứng thú thì có thể lên trên đó thăm thú một chuyến, nhân tiện nghỉ ngơi một lát, kế tiếp chúng ta còn phải tiếp tục trèo núi. Đến khi nào xuống đến thung lũng bên dưới, chúng ta mới coi như hoàn toàn ra khỏi được lãnh địa của người Cramer."

Chúng tôi đã đi đường cả một đêm, giờ đến được sào huyệt của Malik, cuối cùng coi như đã tạm thời an toàn, không cần phải tiếp tục lo sợ đám người nguyên thủy Cramer truy sát nữa, cả đám đều thả lỏng tinh thần, ngồi phệt xuống ngay tại chỗ.

Trên mặt đất đá lổn nhổn, ngả lưng xuống tự nhiên có cảm giác gai gai người. Nhưng mấy người chúng tôi đã đi liên tục cả một ngày một đêm, đến lúc này đã sức cùng lực kiệt, làm gì còn hơi sức đâu mà bận tâm, mỗi người tìm đại lấy một chỗ bằng phẳng để nghỉ ngơi. Trái lại, Lâm Phương có vẻ tỉnh táo linh hoạt hơn so với mấy người chúng tôi một chút, có lẽ là do tính đặc thù của công việc phải thường xuyên sinh hoạt trong rừng, cho nên đã quen với khí hậu oi bức ở nơi đây. Cô ta ngồi dưới bóng râm của một tảng đá, uống nước nghỉ ngơi, giữ một khoảng cách không gần cũng chẳng xa với chúng tôi. Thực ra, trong lòng tôi vẫn luôn cảm thấy nghi ngờ cô ta. Một nhà thực vật học còn trẻ, tại sao lại có thể một mình dẫn quân xâm nhập vào rừng nhiệt đới. Hơn nữa, căn cứ vào những gì nhóc Cadillon đã kể lại, cô ta mang theo thiết bị đắt tiền, nhưng giờ chẳng nhìn thấy một món nào. Về phần những nhân viên cùng tổ công tác mà cô ta đã nói, lại sống không thấy người chết không thấy xác. Quan trọng nhất là khi đối mặt với tình huống hiểm nguy đột ngột phát sinh, sự quyết đoán lẫn năng lực giữ bình tĩnh của cô ta, đừng nói là người bình thường, cho dù là binh lính lão luyện trong quân ngũ cũng phải cảm thấy xấu hổ. Đáng tiếc, trước mắt chúng tôi chẳng có chứng cứ gì, ngoài tin tưởng vào lời nói của cô ta thì chỉ có thể đến đâu hay đến đó.

Suy nghĩ miên man, tôi thật sự không cưỡng lại được cơn buồn ngủ, vừa nhắm mắt đã chìm vào giấc ngủ. Tôi ngủ một giấc say sưa, chẳng có mộng mị gì, đến khi mở mắt thức dậy thì mặt trời đã sắp lặn xuống núi. Tôi vươn người nhổm người dậy khỏi đám đá vụn, trông thấy mấy người khác đang đốt đèn cồn ở một chỗ kín gió bên sườn núi. Thấy tôi đã tỉnh, Tuyền béo đủng đỉnh đi tới, miệng vương đầy bột bánh quy: "Lão Hồ, chúng ta tốt hơn hết là xuống núi kiếm vài món dân dã về ăn. Khẩu phần lương thực mà Vương Phổ Nguyên đã chuẩn bị cho chúng ta quả thực chẳng ra thể thống gì, chỉ có một ít bánh quy nén với rau xanh nghiền đóng túi. Nhìn mấy thứ này là tớ đã hiểu, tại sao trước kia người Mỹ đánh Việt Nam lâu như vậy mà không thắng. Với cái loại thức ăn thế này, không gục xuống vì kiệt sức đã là may lắm rồi."

Tôi nói: "Không tồi tệ đến mức như cậu nói đấy chứ. Cậu xem, mấy người kia chẳng phải đang ăn rất ngon lành hay sao."

Tuyền béo đáp: "Cái đám người này đã ăn đồ ăn rác rưởi của tây thành quen, không biết tinh túy ẩm thực của Trung Hoa chúng ta. Không tin cậu ăn thử mà xem, cái thứ này con mẹ nó là để cho người ăn sao!"

Tôi bán tín bán nghi mở một túi bánh quy nén ra. Loại bánh quy này hình khối lập phương, nặng trĩu tay, chỉ một cục không quá to nhưng áng chừng đã nặng cỡ viên gạch, nhìn mấy lát cắt vàng vàng là có thể đoán ra mùi vị chẳng được ngon lành cho lắm. Tôi thử cắn một cái, ê cả răng. Sợ bị Tuyền béo chế giễu, tôi nghiến răng cắn mạnh, cuối cùng cũng gặm ra được một mẩu. Tôi nhai nhóp nhép vài cái, không có mùi vị gì, hơi ba bã. Nếu mô tả cho chính xác, đây chính là một miếng lương khô dùng để ăn tạm cho đỡ đói. Thật ra, bánh quy nén chẳng đến mức quá tệ hại như Tuyền béo đã nói. Ngày trước, trên chiến trường, thiếu thuốc men thiếu lương thực. Vào thời kỳ không kịp tiếp tế quân lương, ngay cả lương khô cứng như đá thế này cũng chẳng có mà ăn. Tuy nhiên, trước khi vào rừng, Tuyền béo đã hơn một lần đề cập tới việc muốn nếm thử món ăn dân dã châu Mỹ một lần. Ở nơi đây, sản vật phong phú, hơn nữa còn là thiên đường của động thực vật. Trên đường đi, chúng tôi đã không ít lần nhìn thấy các con vật như gà rừng, mèo rừng. Đối với kẻ không có thịt không nuốt nổi cơm như Tuyền béo, nếu chỉ dựa vào mấy gói bánh quy nén để giải quyết nhu cầu của dạ dày thì quả là hơi tàn nhẫn. Tuy nhiên, lần này chúng tôi đâu có phải đi dạo chơi thưởng thức cảnh đẹp, cũng chẳng phải là đi cắm trại dã ngoại, ăn đồ nướng. Dưới chân núi có rất nhiều người nguyên thủy Cramer đang rình mò chỉ chực tập kích chúng tôi, trong khi đó đội ngũ của kình địch Cây Sào thì chẳng biết đã đi được đến nơi nào, đã vượt lên trước chúng tôi hay chưa. Giờ phút này xuống núi đi săn chỉ tổ chuốc thêm phiền toái.

Tôi bảo với Tuyền béo: "Tình hình trước mắt của chúng ta tương đối phức tạp, thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện. Chờ đến khi tới chỗ Cây cầu ma, cậu muốn ăn món gì tớ sẽ cho cậu ăn món đó, rượu ngon thịt mỡ cái gì cũng có."

Tuyền béo thừa hiểu hiện giờ không thể đòi hỏi quá nhiều. Cậu ta móc ra bánh quy ra, nghiến răng cắn một miếng to: "Tớ chỉ nói vậy thôi, món này chẳng đến mức khó ăn như tớ đã nghĩ, ăn đi ăn lại rồi sẽ quen thôi. Thời kì đặc biệt, khẩu phần đặc biệt. Nhưng lão Hồ này, cậu nói xem, chúng ta có nên tìm cơ hội lên đỉnh núi ngắm nghía một chút không. Đêm qua tớ vừa xem sao, phát hiện ra phong thuỷ nơi đây rất đặc biệt, rất đáng phải nghiên cứu."

Tôi và cậu ta quen biết nhau đã sắp hơn nửa đời người rồi, nhưng cho tới bây giờ chưa bao giờ từng nghe nói cậu ta còn biết xem phong thuỷ cơ đấy, vậy là phì cười nói: "Vừa rồi thằng ranh nhà cậu rống ầm lên oán trách, hóa ra là do con sâu thèm ăn trong bụng tác quái, rõ ràng là thèm khát đồ bồi táng theo thầy mo Cramer của người ta."

Nét mặt trở nên nghiêm trang, Tuyền béo ra vẻ cao thâm nói: "Lúc trước đã nói cất bùa, treo ấn, rửa tay chậu vàng rồi. Cái bùa Mô Kim kia, tớ đã ném xuống biển Nhật Bản từ lâu, làm sao còn có thể thèm muốn bảo vật nào của người nước ngoài được nữa. Lúc trước, chẳng qua tớ thấy tính chất đất đai ở nơi này khác thường, không phù hợp với môi trường xung quanh, cho nên mới định nhân cơ hội này học tập Hồ tư lệnh thêm một chút kiến thức về phong thuỷ, hưởng ứng lời hiệu triệu "không ngừng học tập không ngừng tiến bộ" của Mao Chủ Tịch thôi mà. Cậu hiểu lầm như vậy, khiến cho tớ rất, rất đau lòng. Hồ Bát Nhất, nếu như hôm nay tớ mất mạng vì nỗi đau này, thì cậu chính là tên đao phủ theo đúng nghĩa."

Thấy Tuyền béo bắt đầu cằn nhằn, tôi vội vàng cắt ngang lời cậu ta: "Đã là anh em với nhau, cậu muốn thế nào thì cứ làm như thế đó." Tôi liếc nhìn qua phía mấy người Đầu Trọc đang ngồi vây quanh bếp lửa cồn rồi quay lại nói với Tuyền béo: "Lát nữa ăn cơm xong, chúng ta sẽ rủ nhau đi tản bộ, sau đó kín đáo leo lên từ phía sau. Tuy nhiên, tớ phải nói trước, sau khi đi vào đó chỉ được nhìn, không được lấy dù chỉ là một cây kim sợi chỉ của nhân dân."

Tuyền béo thoáng nở một cười mờ ám, sau đó đứng dậy, vỗ bụng, lớn tiếng nói: "Lão Hồ, bữa tiệc này quá ngon miệng đi, tớ hơi căng bụng rồi đây này. Cậu thì sao?"

Tôi phối hợp với lời cậu ta, đáp lại: "Đúng vậy, lão Vương. Tớ cũng thấy hơi căng bụng. Làm gì bây giờ thì mới tốt?"

"Vậy chúng ta tìm chỗ nào đi dạo một chuyến, sau khi ăn xong đi tản bộ có ích cho tiêu hóa."

"Ý kiến này rất hay, vậy chúng ta lên trên núi một chuyến!"

Chúng tôi vừa tự biên tự diễn vừa đi lên trên đỉnh núi. Tần bốn mắt đứng dậy, vẫy tay lia lịa với chúng tôi: "Quản lý, tôi cũng hơi căng bụng, các anh chờ tôi với!"

Tôi và Tuyền béo giả vờ như không thấy, rảo chân bước nhanh hơn. Không ngờ cái tên luật sư đầu óc thiếu phát triển kia lại vẫn cứ đuổi theo. Tuyền béo bị anh ta làm cho tức giận đến mức nghiến răng nghiến lợi, nhưng không tiện xả cơn giận trước mặt mọi người, thì thào bảo với tôi: "Hay là chúng ta kiếm chỗ nào đánh thằng ôn này bất tỉnh. Đến lúc đó, nếu có ai hỏi, chúng ta sẽ nói là hắn bị đá núi rơi trúng đầu."

Tôi đáp: "Anh ta chẳng có thù hận nào đáng kể với chúng ta cả, hành vi thiếu đạo đức như thế tốt nhất đừng có làm. Nếu anh ta muốn thì cứ để anh ta đi theo. Lát nữa, trên đường đi chúng ta sẽ kể vài câu chuyện về bánh tông ăn gỏi người, hù dọa anh ta một chút."

"Nhưng nếu anh ta không sợ, nhất quyết đi theo chúng ta xem mộ thầy mo thì sao?"

"Vậy thì không thể trách hai anh em ta xuống tay dạ độc ác rồi, nện một cú cho anh ta bất tỉnh luôn."

"Cậu nhìn lại mình xem, sớm muộn gì cũng phải xuống tay đánh anh ta ngất, còn vắt óc bịa chuyện làm gì cho tốn chất xám!"

"Như thế gọi là tiên lễ hậu binh, chúng ta buộc làm việc phải làm, thì hành vi đó mới không thẹn với lương tâm."

"Hồ tư lệnh, không ngờ trình độ tư tưởng của anh lại đột phá tới một độ cao lịch sử nhanh như vậy."

Tần bốn mắt không biết hai chúng tôi đang tìm cách ám hại mình, hưng phấn bừng bừng chạy tới. Anh ta nói: "Thật sự không thể nào ở cùng một chỗ với người nhà họ Vương, không thể chịu đựng được. Các anh đang đi đâu thế? Tôi nghe Lâm Phương nói, trên đỉnh núi có một khu mộ an táng thầy mo Cramer. Tôi vẫn chưa từng nhìn thấy cách bài trí trong mộ cổ như thế nào cả, các anh có hứng thú cùng nhau lên đó xem một chuyến hay không."

Có một điều quan trọng là tôi tương đối mù mờ về văn hóa của người Anh-điêng, thậm chí có thể nói là hoàn toàn không biết gì cả. Có anh chàng Tần bốn mắt đi theo, lúc cần thiết chẳng biết chừng anh ta còn có thể biến thành một hướng dẫn viên nghiệp dư cho chúng tôi.

Sau khi đã quyết định, tôi bèn nói với Tần bốn mắt: "Nếu anh bạn Bốn mắt cảm thấy hứng thú với mộ thầy mo, vậy thì chúng tôi đành liều mình bồi quân tử, lấy hết can đảm theo anh lên trên đó một chuyến để có lần được xem huyệt của người phương tây."

Tần bốn mắt đâu có biết gì về nghề cũ của tôi và Tuyền béo. Anh ta đẩy nhẹ kính mắt lên, nói: "Không có vấn đề gì, các anh cứ đi theo tôi. Nếu như có việc gì khác thường xảy ra, các anh không cần phải sợ. Nghe nói, có một số người, sau khi chết rồi, thi thể sẽ biến thành cương thi tấn công con người. Nếu gặp trường hợp đó, tất cả nghe theo chỉ huy của tôi. Về phương diện này, tôi có kinh nghiệm hơn các anh."

Cả Tuyền béo và tôi đều rất ngạc nhiên, kinh nghiệm mà Tần bốn mắt nói là cái quái gì vậy, bèn hỏi anh ta: "Cái gì, anh đã từng gặp bánh tông lớn?"

Tần bốn mắt vừa leo trèo vừa đáp lại bằng giọng ngại ngùng: "Không đáng được coi là bánh tông lớn. Trong thời gian thực tập làm kiểm tra viên, tôi đã từng thụ lý từ đầu đến cuối một vụ án cương thi tấn công người. Nạn nhân bị cắn khăng khăng bảo rằng kẻ tấn công mình là một thi thể. Lúc ấy không có ai chịu tin lời khai của anh ta cả. Nạn nhân còn yêu cầu chính quyền địa phương bồi thường chi phí chữa trị cho mình. Khi được giao phụ trách vụ án đó, tôi đã được tận mắt nhìn thấy cương thi mà nạn nhân đã miêu tả ngay tại phòng chứa thi thể của cục cảnh sát. Theo lời khai của nạn nhân, thi thể đó do anh ta đào được trong lúc khai khẩn đồng ruộng. Lúc vừa đào lên, toàn bộ thi thể vẫn còn nguyên vẹn không mất một sợi tóc nào. Anh ta cứ tưởng rằng đó là nạn nhân của một vụ giết người rồi chôn xác dưới ruộng để phi tang. Thế nhưng, quần áo của thi thể lại khác hẳn với thời bấy giờ. Nạn nhân chợt nhận ra, cái xác mình đào được chính là một thi thể lâu năm. Do vậy anh ta định gọi điện thoại báo cảnh sát. Nhưng đúng vào lúc anh ta vừa mới đứng lên thì thi thể đó đột ngột dựng đứng dậy, cắn luôn vào vai của anh ta. Rất may là nạn nhân đang cầm xẻng trong tay, vì vậy anh dùng nó chặt đứt cổ của cương thi đã cắn mình, sau đó ba chân bốn cẳng chạy đi báo án. Đến khi cảnh sát chạy đến nơi, thi thể đó đã biến thành một bộ xương."

Tôi vẫn luôn tưởng rằng, những vụ biến thành cương thi như thế này chỉ xảy ra ở đất nước của mình, không ngờ tại nước Mỹ ở tít tận bờ bên kia của Thái Bình Dương cũng phát sinh chuyện tương tự, thế là vội vàng hỏi anh ta: "Về sau thì sao? Cương thi mà anh nhìn thấy có hình dạng như thế nào? Có vồ người không?"

Tần bốn mắt lắc đầu: "Đã biến thành bộ xương rời ra từng cái, làm sao còn tấn công người được nữa. Tôi đã thẩm tra đối chiếu dấu răng trên người nạn nhân, thấy hoàn toàn trùng khớp với hàm răng của cái xác chết cổ đó. Nhưng cảnh sát vin vào lý do thời gian không hợp lý, bẻ gãy lập luận của tôi. Vụ án đó cuối cùng không được thành lập. Chỉ có điều, nghe nói vài tuần sau, nạn nhân trong vụ án đó đột ngột phát cuồng, cắn chết hết toàn bộ động vật trong nông trại. Hàng xóm của anh ta báo cảnh sát. Do tấn công cảnh sát nên anh ta bị bắn chết ngay tại chỗ. Nghe nói, sau khi bị bắn, anh ta vẫn có thể nhảy tưng tưng, máu chảy ra là lập tức đông lại. Cuối cùng cảnh sát buộc phải nã súng liên tục, mãi đến khi bắn nổ tung đầu của anh ta thì cảnh tượng đáng sợ đó mới kết thúc."

Thấy tôi mãi không nói câu gì, anh ta cho rằng tôi đã bị cương thi mà mình kể làm cho sợ choáng váng, vậy là đổi sang giọng nhẹ nhàng an ủi tôi: "Thực ra, câu chuyện về sau hoàn toàn chỉ là tin đồn, không được chứng thực. Dù sao đi nữa, chúng ta cũng sắp lên đến đỉnh núi rồi, cương thi có tồn tại hay không, lát nữa sẽ được tận mắt chứng thực một lần."

Tôi nghĩ bụng, số bánh tông lớn mà anh đây đã gặp còn nhiều hơn số bánh chưng tết mà chú mày ăn. Địa hình của sào huyệt Malik rất đặc biệt, không khí ẩm ướt. Thi thể chôn ở chỗ này sẽ nhanh chóng bị phân hủy, hoàn toàn không kịp biến thành cương thi. Nếu không phải đi lên đây để Tuyền béo giải tỏa cơn nghiện, tìm lại cảm xúc thời thanh xuân đã qua của hai thằng, tôi còn lâu mới thèm bò lên nhìn ngó những cái xác phân hủy buồn nôn đó.

Thực ra, độ cao so với mực nước biển của sào huyệt Malik thấp hơn nhiều so với mọi người đã lầm tưởng. Nó chỉ là một ngọn đồi nhỏ trên vùng đồng bằng được bồi đắp bằng phù sa, có cao đến mấy cũng không thể gọi là chọc trời được. Sau khi đến đỉnh núi, chẳng tốn mấy thời gian công sức, chúng tôi đã tìm thấy mộ của thầy mo Cramer. Không thể nói là chúng tôi quá may mắn, mà theo tôi thấy, nguyên nhân là bởi quan niệm của người nguyên thủy hoàn toàn chẳng có dính dáng gì tới phong thuỷ như người ta đã nói cả. Khi sắp tới đỉnh núi, xương cốt người chết nằm vương vãi khắp nơi, có nhiều nơi không còn chỗ trống để mà đặt chân. Chúng tôi đành phải vừa hô lên "Nhường chút" vừa dẫm lên đám xương cốt để đi qua. Tiếng rắc rắc liên tục vang lên dưới chân khiến tôi sởn hết cả tóc gáy: Nơi đây thực ra là mộ thầy mo hay là bãi tha ma, tại sao xương người lại vất bừa vãi khắp nơi như thế này?

Tần bốn mắt luôn dẫn đầu đoàn. Theo những gì anh ta nói, mình đã làm luật sư lâu như vậy, có loại xác chết nào mà chưa từng nhìn thấy. So ra, đám xương cốt trước mặt này có vẻ dễ nhìn hơn rất nhiều. Sau khi lên đến đỉnh núi, một hang đá ăn sâu xuống lòng núi đột ngột hiện ra trước mặt ba người chúng tôi. Căn cứ vào những gì Lâm Phương đã nói, bên trong hang đá có lẽ chính là nơi an nghỉ của các đời thầy mo Cramer sau khi họ qua đời. Tôi nhìn xuống dưới xem sao, chỉ thấy được cửa động được xây ẩu tả bằng đá, sâu hơn nữa thì hoàn toàn đen thui không nhìn thấy gì. Tôi nhặt một hòn đá ném xuống dưới, chỉ lát sau đã có tiếng động vọng lại. Điều này đã chứng tỏ hang động này không sâu, bên dưới có lẽ không có gì quá nguy hiểm.

Tuyền béo đã chuẩn bị trước cho chuyến đi này. Cậu ta rút dây thừng dấu trong áo lót ra, rồi tìm một tảng đá chắc chắn buộc vào, sau đó móc đèn pin ra, cài vào túi quần. Tần bốn mắt thấy động tác của cậu ta hết sức thành thạo, tò mò hỏi tôi: "Trước kia anh Tuyền béo làm công việc gì thế?"

Để giảm bớt xấu hổ, tôi vừa cột dây thừng vào thắt lưng, vừa phân bua với Tần bốn mắt: "Trước kia chúng tôi làm việc tại một mỏ than ở Sơn Tây Trung Quốc, anh có biết nơi đó không? Ở đấy có rất nhiều mỏ than nhỏ, chẳng khác gì mấy so với hang động này."

Tần bốn mắt gật đầu, học theo chúng tôi, tự cột dây vào người. Trước khi xuống hang, tôi dặn dò Tần bốn mắt: "Lát nữa, nếu có việc gì không hay xảy ra, anh lập tức cắt đứt dây thừng, bỏ chạy ngay không cần quan tâm đến chúng tôi, muôn ngàn lần đừng có quay lại. Hai người chúng tôi có nhiều kinh nghiệm chạy trốn dưới hang động, nếu anh ở lại, sẽ chỉ làm vướng tay vướng chân chúng tôi mà thôi. Đến lúc đó, mọi người sẽ phải cùng chết tức tưởi dưới hang sâu, vậy thì chẳng hay ho chút nào."

Tuyền béo đã nôn nóng không còn kiên nhẫn được nữa, thấy chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng, hô lên một tiếng, là người đầu tiên tụt xuống bên dưới. Tôi và Tần bốn mắt theo sau cậu ta, dò dẫm chui xuống cái hang chôn xác thầy mo trong truyền thuyết.

Đúng như tôi đã dự đoán, cái hang đá này không phải do con người tạo ra, mà do tự nhiên hình thành. Thầy mo Cramer chọn nơi đây làm phần mộ chôn cất bản thân, nguyên nhân có lẽ là bởi sào huyệt Malik là ngọn đồi duy nhất ở quanh đây, là nơi họ thấy có vẻ gần với bầu trời nhất, cho rằng đó là nơi có thể liên lạc được với thần linh ở trên trời. Shirley Dương đã từng giảng giải cho tôi nghe, trong quan niệm về sống và chết của người Anh-điêng, chết là sự khởi đầu của một vòng đời khác, cho nên họ chưa bao giờ sợ hãi cái chết cả. Họ có quan niệm riêng về thế giới bên kia, cho rằng sau khi linh hồn thoát ly thân thể, tính mạng mới trở thành vĩnh hằng. Tôi hỏi lại, nếu đúng như vậy, tại sao Đế quốc Inca vẫn lưu truyền mãi truyền thuyết về dòng suối thanh xuân, trong khi bản thân phản lão hoàn đồng chính là một loại kháng cự lại cái chết. Shirley Dương đã nhún vai nói, nếu nó tồn tại đã chứng tỏ nó có lý do để tồn tại. Cho dù có suy đoán theo chiều hướng nào đi nữa, chúng ta cũng không thể biết được, sau khi chết con người ta sẽ thế nào. Nhưng chính bởi vì có tấm màn bí ẩn đó, tầm quan trọng của khảo cổ học mới được chính thức thể hiện ra.

Đường vào hầm mộ thầy mo rất hẹp, gần như gập thành một góc vuông 90 độ. Trên vách tường nham nhở không hề có dấu vết đẽo gọt của con người. Rất may là đường hầm không quá sâu, chúng tôi bò lê bằng hai bàn tay và đầu gối xuống dưới. Nửa giờ sau, cuối cùng cũng tới được đáy hang động. Phần cuối hang động là một không gian hình bầu dục kín mít, diện tích tầm 100 mét vuông. Bởi vì thông gió, chất lượng không khí có thể coi là tạm được. Tuyền béo vừa xuống đến dưới đáy, lập tức móc một vật từ trong túi quần ra rồi đeo luôn lên cổ. Sau khi nhìn rõ đó là cái gì, tôi thiếu chút nữa là phì cười, vặn hỏi cậu ta: "Chẳng phải cậu bảo là đã ném cái thứ này xuống biển Nhật Bản rồi hay sao, tại sao giờ lại vẫn còn đeo trên cổ thế này?"

Tuyền béo nắm lấy bùa Mô Kim, giải thích: "Vừa mới xong ném tớ đã hối hận ngay, thế là nhảy luôn xuống biển mò mẫm rất lâu mới tìm lại được. Giờ nó chỉ là một món đồ trang sức, một cái phù bình an, chẳng khác gì phật châu trên cổ hòa thượng hay thánh giá trên cổ cha cố cả, không mang bất cứ thuộc tính nghề nghiệp nào hết."

Tần bốn mắt luôn theo sát sau chúng tôi. Mặc dù vị luật sư tài giỏi này tuyên bố mình đã từng nhìn thấy thi thể ma quái hiếm lạ, nhưng dù gì đây cũng là lần đầu tiên đích thân hạ cố xuống hiện trường. Anh ta bám dây thừng tụt xuống từng bước một. Mấy lần kính đeo mắt suýt chút nữa bị rơi, khiến anh ta luống cuống tay chân, hết sức chật vật. Độ cao từ cửa vào xuống đến đáy mặc dù không quá lớn, nhưng lỡ như anh ta trượt chân rơi xuống, vậy thì chẳng phải là chuyện đùa, nếu gãy tay đau chân thì cuối cùng người chịu khổ vẫn là tôi và Tuyền béo. Tôi cởi dây thừng cột ngang lưng ra, đứng ở cửa động, một tay nâng chân, một tay túm chặt eo anh ta, kéo sợi dây thừng lại từng chút một. Sau khi xuống đến nơi, Tần bốn mắt ngồi phịch xuống đất thở hổn hển một lúc, sau đó cởi dây thừng ra, nói: "Đi xuống mới biết quả thật đó là việc không dễ dàng gì, nhìn hai người các anh hành động nhẹ nhàng như vậy, chắc là ngày trước đã làm việc trong mỏ than được một thời gian tương đối dài rồi nhỉ?"

Tôi xấu hổ cười. Lúc này Tuyền béo đã đi tới cuối hang. Cậu ta giơ đèn pin lên, giống như muốn giúp cho tôi nhìn thấy rõ ràng hơn, rồi réo ầm lên: "Lão Hồ, mau qua bên đây xem này, bánh tông có mặt ở khắp hang động."