Tam Quốc Chi Hàn Môn Thiên Hạ

Chương 17: Anh hùng tứ phương


Thiên tử vừa hạ chiếu, bốn bề tứ hải đều chấn động. Cho dù người nào cũng không dám để phản tặc khăn vàng binh phát Lạc Dương, lật đổ triều đình đại Hán.

Chiếu chỉ truyền tới Lương Châu. Trong đại bản doanh của quân Tây Lương, một người từ bên ngoài vội vàng chạy vào, người này cốt cách thanh kỳ trông rất giống với nho sĩ, nhưng giờ phút này sắc mặt của y vui mừng, chạy vào trong lều lớn liền nói to: “Nhạc phụ, tin vui, tin vui nha.”

Ngồi ở vị trí chủ soái trong lều lớn là một mãnh tướng thân người cao to vạm vỡ, hắn bỏ binh thử trên tay xuống bàn, hiếu kỳ hỏi: “Chuyện gì mà con mừng thế?”

Lý Nho đem chiếu của thiên tử trải lên bàn, sau đó đưa tay vuốt ve mấy cọng râu mép lưa thưa của mình, trong mắt vẻ vui mừng càng thịnh, chờ sau khi vị mãnh tướng kia đọc xong chiếu thư liền vuốt cằm, nói: “Nhạc phụ, à không, tướng quân, giờ phút này chính là thời điểm kiến công lập nghiệp rồi đó. Chỉ cần cha xuất binh nhập quan giải cứu Lạc Dương thì thiên tử dù không muốn thăng quan cho người cũng không thể nào làm được nha.”

Nhạc phụ của Lý Nho chính là quân chủ cả vùng Tây Lương, gọi là Đổng Trác.

Lúc này Đổng Trác cũng hiểu rõ ẩn ý, cười nói: “Như thế rất tốt!”

Lại không ngờ tới Lý Nho lại cười một cách thần bí, nói: “Tướng quân, con có một lời này nếu như người nghe lọt thì nghe tiếp, còn không thì coi như chưa từng nghe qua cũng được.”

Đổng Trác sửng sốt, biết đứa con rể của mình ngày thường trung tâm cẩn thận, mưu kế xuất ra thì khỏi phải nói, vì vậy y liền thấp giọng nói: “Con cứ nói.”

“Giải vây Lạc Dương chỉ cần chúng ta tạo chút thanh thế là được, đầu tiên cần phải bảo vệ mình cái đã. Chờ sau khi Lạc Dương binh thiếu tướng ít, tướng quân ngài liền suất quân khống chế đế đô trong lòng bàn tay. Còn nếu như chuyện này không thể làm được thì lúc ấy lui quân về lại Tây Lương, không lo không phát triển được.”

Lời của Lý Nho vừa dứt, Đổng Trác liền ngầm hiểu ra, sắc mắt cả kinh một lúc y mới nói: “Con muốn nói là, sau khi bình loạn thì Lạc Dương như tòa thành trống rỗng, chỉ cần ta nắm trong tay đế đô thì có thể hiệu lệnh thiên hạ sao? Chuyện này, chuyện này... Cũng không phải không được. Nhưng nếu như không nắm chắc thì sao ta lại phải lui quân về lại Tây Lương chứ? Không bằng ngồi ở Lạc Dương chờ xem tình thế biến hóa ra sao, không phải tốt hơn chăng?”

Lý Nho lắc đầu, nghiêm túc nói: “Cục diện chính trị ở đế đô biến hóa kỳ lạ. Nếu như đem quân vào nắm quyền chì phải chắc chắn một trận chiến định càn khôn. Còn không thì nên lui lại Tây Lương đi thôi. Cha không nghĩ lại xem, trong đế đô còn có đại tướng quân, thập thường thị, hơn nữa còn mấy sĩ tộc nguyên lão ba triều. Cho dù cha có công cứu giá hoàng thượng đi chăng nữa cũng không được thiên tử để trong lòng đâu? Tướng quân à, nói thật luận hành quân đánh giặc thì trong triều chẳng có thằng nào bằng ngài cả, nhưng nếu nói tới dùng âm mưu quỷ kế thì... Ha hả, cha chỉ là hạng cùi bắp thôi, không thể nào là đối thủ của đám cáo già đó đâu.”

Sau một hồi suy tính thiệt hơn, Đổng Trác cảm thấy con rể mình nói có lý, vì vậy liền hạ lệnh ba quân nghỉ ngơi chỉnh đốn võ bị, ba ngày sau xuất binh cứu giá thánh hoàng.

Đất trời sắp nổi lên cơn giông tố, anh hùng hào kiệt khắp nơi nhân dịp muôn nổi danh tứ hải đã gia nhập vào các lộ nghĩa quân dẹp phản tặc.

Trên đường lớn U châu, thứ sử Lưu Yên suất lĩnh binh mã gấp rút tiến về Lạc Dương, còn quân đội của y cũng được phân bố chặt chẽ, mội ba ngàn binh sĩ sẽ được ba vị tướng lãnh dẫn đầu, đi theo lộ tuyến hành quân đã được định rõ.

Lúc này có ba người ngồi trên lưng ngựa, khí thế bất phàm chỉ cần liếc mắt đã biết ngay không phải hạng người tầm thường, chính là một loại khí thế anh hùng, khí phách lan tỏa trời đất, chính là ba anh em Lưu Quan Trương.

Ở trên một đường lớn khác từ Dương châu đi thẳng tới các châu huyên phía bắc, có gần một ngàn kỵ binh phóng ngựa chạy băng băng như bay, người dần đầu là một vị tướng oai hùng, bên cạnh y có một thiếu niên cưỡi trên một con ngựa trắng, tuy còn trẻ nhưng sắc mặt cương nghị, mạnh mẽ hiếm có.

Chỉ thấy người thiếu niên nọ một tay nắm lấy dây cương, giục ngựa tăng tốc, cùng vị tướng lãnh trung niên kia sóng vai mà đi, đồng thời trên một tay khác, thiếu niên giương cao một cây cờ hiệu, trên mặt thêu một chữ “Tôn” to tướng, nhìn rất bắt mắt.

“Cha, chúng ta đi Lạc Dương lần này giết sạch phản tặc khăn vàng thì cha sẽ được phong quan tiến chức sao?” Thiếu niên nhanh như chớp đã phóng ngựa tới bên cạnh, cao giọng mà nói.

Vị tướng trung niên kia lại ngửa mặt lên trời cười to không dứt, ánh mắt mang vẻ tự hào nhìn vào cậu thiếu niên nọ, giọng nói đầy khí phách như thấu tận trời xanh: “Lần này tới Lạc Dương chính là cơ hội trời ban cho anh hùng hào kiệt Giang Đông chúng ta đại triển hùng phong, chờ sau khi giết sạch phản loạn thì cha sẽ đòi một chức thái thú Ngô quận về. Ha ha.”

Thiếu niên kia lại nghiêng đầu sang chỗ khác, sắc mặt không phục, giận dỗi nói: “Cha của Tôn Sách ta làm sao chỉ làm một thái thú nho nhỏ kia chứ? Tốt nhất vẫn phải làm chức Đại tướng quân nắm giữ binh mã toàn thiên hạ hay ít nhất cũng phải làm thứ sử Dương châu. Nếu không thì nhanh nhanh quay đầu trở về nhà làm ruộng thôi.”

Vị tướng trung niên nọ nghe Tôn Sách nói xong lại càng cười dữ dội hơn nữa, cất cao giọng nói: “Tôn Kiên ta có được người con như thế này, cả cuộc đời này cũng đủ lắm rồi.”

Vậy là quân phiệt Tây Lương Đổng Trọng Dĩnh, mãnh hổ Giang Đông Tôn Văn Đài, mãnh hướng hùng hổ Lưu Quan Trương, tất cả anh hùng hào kiệt trong thiên hạ từ bốn phương tám hướng tụ hội tại Lạc Dương. Giờ phút này, anh hùng như măng mọc sau mưa, đang từ từ bước lên võ đài thời Hán mạt thể hiện tài hoa của chính mình. Đây chính là võ đài lịch sử to lớn cuối thời Đông Hán.

Nhưng cũng có nhiều người sau khi cầm được chiếu lệnh của thiên tử liền lâm vào tình cảnh nan giải không biết phải làm thế nào, điển hình là Chân gia.

Trung Sơn quốc nằm ở bắc bộ Ký châu, từ sau khi Trương Giác dẫn quân khăn vàng tây chinh Lạc Dương thì Trung Sơn quốc là nơi chưa từng bị quân Khăn vàng xâm chiếm. Tuy là như vậy nhưng khi Trương Giác đứng dậy dựng cờ tạo phản thì các nơi đều đồng loạt hưởng ứng, cùng nhau tạo phản lại triều đình, trong cảnh nội của Trung Sơn quốc cũng không còn giữ được thái bình như xưa nữa. Nhưng may mắn là Chân gia đã sớm có sự chuẩn bị, sau khi Chân Nghiễm đảm nhận chức thái thú liền chỉ huy quân đội, dẹp yên mấy nhóm quân phản loạn tự phát, giữ gìn trật tự trị an nên vẫn chưa bị tình hình chiến loạn bên ngoài ảnh hưởng.

“Đại ca, anh nói chúng ta có nên phát binh hay không? Nếu như phát binh thì với binh lực trong tay chưa tới một vạn người, miễn cưỡng còn có thể tự bảo vệ được mình chứ nếu phát binh cứu giá Lạc Dương thì chỉ sợ khó mà bảo toàn. Nhưng nếu không chịu phát binh thì ngày sau thiên tử trách tội xuống sẽ chúng ta không thể nào gánh vác được.” Chân Nghiễm quay về nhà cùng hai anh em mình thương lượng, cha của bọn họ Chân Dật ốm ở trên giường, tuy đây là chuyện đại sự nhưng phận làm con không dám quấy rầy cha mình nghỉ ngơi.

Sau khi xem xét thật kỹ chiếu vua, sắc mặt Chân Dự do dự không ngừng. Phải biết Trung Sơn quốc không có đủ binh mã để đi giải vây Lạc Dương. Nhưng lòng vua khó đoán, nhất là loại hoàng đế ngu đần như Linh Đế này lại càng thích làm khó dễ người khác, nhỡ mai sau bị lão sờ tới thì toàn bộ Chân gia sẽ đi vào chỗ vạn kiếp bất phục rồi.

Thấy hai người anh của mình sắc mặt lo lắng u sầu, tam đệ Chân Nghiêu lại bật cười một cái, tự tin nói: “Hai vị huynh trưởng không cần phải phiền lòng. Chúng ta không cần phát binh đâu, chỉ cần phái báo cáo tình hình cụ thể cho thứ sử Ký châu là được. Nếu như vẫn chưa yên tâm, thì chúng ta mang tiền bạc châu báu tới Lạc Dương hối lộ hoàng thượng, lúc ấy hoàng thượng sẽ không trách tội Chân gia chúng ta được. Huống chi Thái Bình đạo tạo phản đã làm đại thương nguyên trí triều đình, cho dù hoàng thượng muốn trị tội những thứ sử, thái thú không phát binh giải vây Lạc Dương chỉ sợ lực bất tòng tâm rồi. Hiện tại phản loạn không ngớ, triều đình tất nhiên cần phải làm yên lòng quan lại các nơi, nếu như bức bách bọn họ quá thì bọn chúng cấu kết cùng phản tặc, loạn càng thêm loạn hoàng thượng muốn kê cao gối mà ngủ cũng khó mà được.”
Sau khi nghe tam đệ phân tích kỹ càng, Chân Dự cùng Chân Nghiễm đều mở miệng cười vui, Chân Nghiễm càng thêm tán thưởng nói: “Tam đệ của ta so với trước kia đã trầm ổn rất nhiều, học thức lại càng thêm tiến bộ hơn nữa.”

Chân Nghiêu khoát tay, khiêm tốn nói: “Tất cả đều là công lao của Phụng Hiếu thôi. Đáng tiếc Phụng Hiếu chỉ ở lại Chân gia có nửa năm, nếu như y ở lâu chút xíu thì đệ có thể hiểu thấu thêm những điều mà bản thân mình còn nghi hoặc chưa rõ.”

Chân Dự cùng Chân Nghiễm nhìn nhau cười, trong lòng không khỏi nghĩ tới: Hiện giờ Phụng Hiếu đang làm chuyện gì nhỉ?

Dĩnh Xuyên

Thiên hạ đại loạn, tin tức phản tặc khăn vàng xua binh tiến đánh Lạc Dương đã truyền đi khắp nơi, mà Dĩnh Xuyên lại là vùng đất nằm giữa các nơi, nằm trên con đường hành quân của quân khăn vàng nên có khả năng sẽ gặp phải tai bay vạ gió. Bỏi vậy nên Quách Gia cùng Tả Từ chỉ huy ba trặm hộ gia đình nông dân thu dọn hành lý, chuẩn bị di tản tới vùng gần thành trì để tị nạn.

Vác hai túi lương thực trên vai đặt lên trên chiếc xe gỗ, Quách Gia xoa xoa mồ hôi trên trán, thiếu niên cùng với y khuân vác lương thực thấy vậy không đành lòng, ra tiếng khuyên nhủ: “Tiểu thái công, người nên đi nghỉ ngơi đi, việc nặng nhọc này cứ giao cho tụi con là được rồi.”

“Đi đi, anh còn lớn hơn chú mày tới ba tuổi đó, việc chú làm được há anh đây không làm được sao? Nếu nói tới võ nghệ thì trong vòng mười chiêu anh sẽ đánh ngã chú xuống đất ngay. Hê hê, có phải chú dụ khị anh đi nằm nghỉ để mà lười biếng, đúng không.”

Quách Gia nói vui vài câu với các thiếu niên đứng cạnh mình, thấy mọi người ai ai cùng tươi cười, trong lòng hắn cảm giác ấm áp.

Đúng lúc này, Hi Chí Tài từ đằng xa thử hồng hộc chạy tới, nói: “Phụng Hiếu, Tuân gia phái người tới mời đệ đi tới thư viện Dĩnh Xuyên, nói là có chuyện quan trọng cần phải thương lượng.”

Quách Gia suy nghĩ một lát mới mở miệng hỏi: “Tuân gia? Không phải Văn Nhược đã đi Lạc Dương rồi sao?”

Hi Chí Tài gật đầu nói: “Từ khi Thái Bình đạo tạo phản thì hoàng thượng đã bãi bỏ lệnh cấm đảng cố, Văn Nhược được thúc phụ Tuân Sảng cùng với bạn bè đi tới Lạc Dương phân ưu lo lắng cho hoàng thượng rồi. Hiện giờ Tuân gia là do tam huynh của Văn Nhược gọi là Tuân Diễn Tuân Hưu Nhược quản lý chủ trì đại sự, thiệp mời này lấy danh nghĩa của hắn gửi tới.”

Cái này Quách Gia cũng biết ít nhiều, tám người thế hệ cha chú của Tuân Úc được vinh dự bằng cái tên Tuân thị bát long, Tuân Sảng lại đứng hàng thứ sáu đáng lẽ cững ở trong triều làm quan. Nhưng mười mấy năm trước cũng vì lệnh cấm đảng phái mà lão từ quan về quê làm ruộng, lúc ấy từng có câu nói đánh giá rằng “Tuân thị Bát Long, từ minh vô song” Từ Minh chính là tên chữ của Tuân Sảng.

Cho tới thế hệ Tuân Úc sau này, thì Tuân gia đã xuất hiện rất nhiều nhân tài tầng tầng lớp lớp. Cho dù Tuân Úc có tài phò tá đế vương thì cũng khó lọt vào mắt thế nhân. Chưa kể mấy người huynh trưởng cùng điệt nhi của gã ai ai cũng là tuấn kiệt trong tuấn kiệt, ví dụ như Tuân Diễn, Tuân Duyệt, Tuần Thầm cùng với Tuân Du hiện đang nhận chức hoàng môn thị lang dưới trướng đại tướng quân Hà Tiến kia.

Nếu như đây là lời mời của mấy thế gia vọng tộc có tiếng không có miếng thì Quách Gia chắc chắn thẳng thừng từ chối. Nhưng đây chính là Tuân Diễn mở lời mời, hắn khó mà từ chối được, ngược lại thầm nghĩ chắc có chuyện gì trọng đại phát sinh rồi đây.

Bởi vì lo lắng quân phản loạn gây hại tới mẹ già của mình, nên Từ Thứ đã nhanh chóng trở về chăm sóc gia đình mình. Do đó nên mọi chuyện nặng nhẹ trong nhà Quách Gia đều ném hết sang cho Tả Từ lão đạo này, cùng với Hi Chí Tài cưỡi khoái mã chạy tới thư viện Dĩnh Xuyên.

Cả buổi ra roi thúc ngựa đi tới Dĩnh Xuyên thư viện, người hầu Tuân gia từ sớm được phân phó đứng chờ liền đem hai người Quách, Hỉ dẫn vào một gian học đường. Mới vừa bước vào trong phòng Quách Gia liền sửng sốt, bởi vì trong này có rất nhiều người đang ngồi, tất cả đều là đệ tử con cháu của hào môn vọng tộc đất Dĩnh Xuyên mà Quách Gia có duyên gặp mặt vài lần.

Tuân Diễn nhanh chóng đứng dậy chào đón, một trái một phải nắm tay Quách Gia cùng Hi Chí Tài, vừa đi vừa cảm thán: “Phụng Hiếu cùng Chí Tài, nhữ trông mong cả hai từ rất lâu rồi, mau mau lại đây nào.”

Sau khi ngồi xuống, Tuân Diễn liền giới thiệu qua hết tất cả mọi người ở trong này. Quách Gia không có chút hứng thú gì với đám tự xưng là con cháu thế gia này, mà mấy tên thế gia đệ tử đều sắc mặt thản nhìn nhìn hai người Quách, Hi, thậm chí có nhiều kẻ không thèm ngó ngàng tới.

“Tại hạ Trần Quần, tự Trường Văn, từ lâu đã nghe Phụng Hiếu nhân đức tài trí. Hôm nay được gặp mặt quả thật là chuyện may mắn.” Một thanh niên tướng mạo nho nhã hào phóng khom mình hành lễ với Quách Gia, sau đó liền cúi người thi lễ với Hi Chí Tài.

Quách Gia thấy người nọ không lớn hơn mình bao nhiêu tuổi, trong lòng dậy sóng không thôi, không ngờ tới ngày hôm nay được gặp mặt vị trọng quốc nhà Ngụy mai sau, vì vậy lập tức đáp lễ nói: “Trường Văn huynh khen trật rồi, Phụng Hiếu có tài đức chi đâu mà sánh với bốn chữ” nhân đức tài trí “chứ. Hôm nay may mắn kết bạn với Trường Văn một bậc chí sĩ anh tài như vậy, chính là may mắn của Gia đây.”

Mọi người trong sảnh đều liếc mắt, ai ai cũng biết Quách Gia thằng nhãi này kiêu ngạo từ nhỏ, ánh mắt mọc đằng trán, thế mà hôm nay vừa gặp một đệ tử thế gia liền mở miệng nói kết bạn, đúng là thái độ khiêm tốn hiếm có nha!

Đám con cháu thế gia tự nhiên khinh thường trong lòng, nhưng bản thân Tuân Diễn lại nhìn Quách Gia một cách đầy thâm ý, trong lòng y cũng sợ hãi than thầm, Quách Gia này có ánh mắt nhìn người sắc bén, lần đầu gặp mặt đã nhìn rõ ai là hạng người có tài, ai là hạng có vỏ không có ruột.

Tạm thời không nghĩ tới nghi vấn này, Tuân Diễn chờ mọi người chào hỏi với nhau xong liền sắc mặt trầm xuống, nghiêm túc nói: “Các vị, căn cứ mật thám từ bên ngoài của Tuân gia hồi báo, tặc tướng quân khăn vàng Ba Tài suất lĩnh năm vạn đại quân đánh tới Lạc Dương. Đột nhiên gần đây chia ra một vạn quân, tự mình hắn suất lĩnh đi về hướng Dĩnh Xuyên này.”

Mọi người chợt ồ lên một tiếng đầy sợ hãi, chỉ riêng Trần Quần, Quách Gia cùng Hi Chí Tài là không có biến sắc vì chuyện này mà thôi.

Trần Quần quan sát rõ ràng phản ứng của Quách Gia, còn lúc này trong lòng Quách Gia thì suy ngẫm: Vì sao Ba Tài phải hành quân tới Dĩnh Xuyên? Đã không có đại quân Hoàng Phủ Tung như trong lịch sử thì ai có thể ngăn cản được năm vạn đại quân của Ba Tài đây?