Phiên chợ Giát

Chương: Phiên chợ Giát Tập 1




Tác giả: Nguyễn Minh Châu

Vuhuu

Lão Khúng thức giấc. Lão chợt thức giấc vì một giấc mê khủng khiếp. Trong cơn mê ngủ, lão Khúng trông thấy một lão già thân hình cao vóng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn cứng như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề, hai con mắt nhìn gườm gườm, với những mảng tiết bò còn ướt hoặc đã khô dính bết trên các bắp thịt nổi cuộn ở bả vai và bắp tay; Cái lão già ghê tởm ấy giang cả hai cánh tay nâng một chiếc búa to nặng như búa của thằng phụ lò rèn ở đầu làng Khơi bổ xuống giữa đầu một con bò, cú đánh của chiếc búa tạ làm lún một mảng trán sát hai con mắt của con vật, khiến cho một con mắt dính đầy máu trồi ra ngoài. Trời đất hỡi, đúng là con bò của nhà lão Khúng, con khoang đen nhà lão, “mụ già khụt khịt hay cảm cúm” của nhà lão, “bà đội trưởng” của lão Khúng, con bò nhà lão kêu rống lên một tiếng nghe ghê rợn, thứ tiếng kêu phát ra vào buổi mờ sáng từ nhà a ba toa phố Cầu Giát mà từ nhỏ những bận đi củi qua đó, qua các nhà a ba toa có ánh sáng ngọn đèn bãi chiếu như hắt ánh sáng ra ngoài, lão Khúng đều phải bịt cả hai lỗ tai lại, vắt chân lên cổ mà chạy. Nào có phải đứa dát, là đứa trẻ tợn tạo nhưng lão Khúng từ nhỏ đã không chịu nổi bất kỳ con vật gì kêu khi sắp chết. Ai? Ai đã giết con khoang đen nhà lão, người bạn đời của lão? Lão nào? Thằng già chết tử chết tiệt nào, đứa thần trùng nào, bọn trộm cướp giết người của dân kẻ bãi hay sơn tràng nào? Thì lão chứ ai! Ðứa hung thần là lão Khúng chứ ai! Kẻ nâng chiếc búa tạ lên đánh vào đầu con vật là lão chứ ai! Tay chân run lẩy bẩy, mồ hôi toát ra khắp sống áo đầm đìa, lão Khúng sợ quá. Lão đã trở nên độc ác quá mức, thật là vô cùng ác độc, mà lão đã trở nên độc ác ngoài sức nghĩ của con người từ bao giờ vậy? Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn xám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Ðằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn lên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.

Ðoạn rồi như một kẻ vừa may mắn thoát hoạ, lão Khúng thở phào. Thực may! May quá! Vậy là không phải, chỉ là trong giấc mơ. Không phải thực. Ðúng, mà đây rồi, con khoang đen nhà lão lúc này đang khụt khịt ở ngoài gian bò sau nhà bếp. Lão yên tâm nằm xuống. Và nghĩ về giấc mơ tiếp sau đó. Pin! Pin! Pin! Lạ lùng sao, con bò bỗng kêu rống lên lanh lảnh như tiếng còi ôtô vậy nhỉ? Mà hoá ra ôtô thật, trong giấc mơ lão Khúng chẳng thấy con bò nhà lão ở đâu nữa, mà từ phía sau lưng lão, ngật ngưỡng lao vút đến một chiếc xe commăngca đầy oai vệ. Chiếc xe đít tròn không chạy trên đường mà bay là là trên mặt đám ruộng trồng khoai lang, bay qua đoạn mương dẫn nước trước nhà lão Khúng rồi lại bay qua mảnh sân nề vôi, bốn bánh xe không hề chạm mặt đất!

Lão Khúng cứ trương mắt đứng ngó trân trân vào cái mặt kính chắn gió. Lão trông thấy loang loáng ở đằng sau có một người đàn ông thân hình phương phi, mặt tròn vành vạnh và đỏ rực như vầng mặt trời mới mọc, mặc sơ mi cụt tay màu trứng sáo đã hơi nhùng nhục, đội chiếc mũ cát két xám. Người ngồi ôtô hớn hở tươi cười nhìn lão, chém chém vào không khí, giống hệt bàn tay của các lãnh tụ trên lễ đài mà lão Khúng đã nhìn thấy nhiều lần ở trong phim. Người đang ngồi trong chiếc xe đít tròn biết bay chính là ông Bời bí thư huyện uỷ, con người đang nổi tiếng khắp đài báo trong cả nước và là bạn thân của lão Khúng. Nghĩ tiếp về giấc mơ đến đoạn đấy thì lão không nghĩ thêm nữa. Lão vẫn giữ nguyên tư thế nằm ngửa, chỉ động đậy hai cẳng chân duỗi thẳng, toàn thân hơi mềm ra. Lâu nay thỉnh thoảng có đôi lúc lão đã thấp thoáng nghĩ đến cái chết. Ðêm lão nằm mê thấy những chuyện vui thì ít, rủi ro, tai hoạ là nhiều. Cho nên mỗi lần nằm mê thức dậy bao giờ lão cũng mừng, rút cục là một nỗi mừng rỡ, âm thầm mừng rỡ như mọi lần, cái thế giới trần ai đầy nhọc nhằn, đầy thân thiết lại trở về với lão trước tiên ở thính giác, từ đôi tai đầy nhậy bén của lão. Lão nghe được gần như cùng một lúc hai hột sương rơi trên tàu lá chuối bên hồi nhà và trên ngọn đu đủ sau nhà. Hai con chó rất khôn của nhà lão thì vẫn im hơi lặng tiếng.

Nằm trong nhà, lão vẫn nghe tiếng chân chúng đi tuần ngoài sân, trong lúc chó nhà thiên hạ đang sủa ran lên. Lắng nghe tiếng chó sủa xa cứ râm ra, như cắn đuổi ma đang bắt đầu lục đục ru về các chốn gió bụi, lão đoán biết ít nhất cũng đã hai ba giờ sáng chứ không ít. Bao nhiêu thứ ánh sáng cùng cái thứ tiếng máy đằng khu công trường lớn, cả trong khe Ðá Dầu cũng đã tắt hết tiệt cả. Ðêm tối thui và sâu. Ðâu, đã từ lâu lắm lão Khúng lại mới cảm thấy một vẻ im ắng về ban đêm như thế này khiến cho lão hơi sờ sợ một nỗi sờ sợ nguyên thuỷ y như có ai lại vừa ném lão trở vào một cái làng đất sâu hun hút và tối tăm - từ ở đấy lão đã ra đời, và cũng từ đấy ông bà tổ tiên lão đã ra đời, để sinh ra lão. Biết rằng dẫu muốn thì cũng không tài nào ngủ lại được nữa, lão Khúng đã toan trở dậy nhưng cái cảm giác tối tăm nặng nề ban nãy như một hòn đá tận dưới lòng đất sâu nối với thể xác lão bằng một sợi dây rất dài vô hình cứ níu kéo không cho lão ngồi dậy. Nhưng là một con người vốn quen săn sở đối với công việc, lão đã bật dậy: Sáng nay lão Khúng phải đi xuống chợ Giát bán con bò. Và lão đã rắp tâm dắt con bò đi thật sớm...

Suốt đời lão, trong muôn vàn những điều bực bõ, không thực hoàn toàn thoả mãn về chính mình, có một điều thỉnh thoảng lão lại cảm thấy là không biết cách sắp xếp cho có thứ tự những thứ chứa ở trong cái đầu của lão, cũng không biết cách diễn đạt thành lời cho rành rẽ - tất nhiên là chỉ diễn đạt với mình - cái bầy ý tưởng rối rắm, tăm tối lại hay trái ngược lẫn nhau, lại đầy gai ngạnh, như nhiều đàn bò của nhiều nhà tự nhiên đem nhốt chung vào một chuồng và suốt đêm chúng nó húc nhau, rượt đuổi nhau lung tung beng cả lên, ở trong ngăn chuồng quá đỗi chật hẹp là cái đầu của lão. Lão ngồi bật dậy trên tấm phản mọt rồi lập tức thả hai bàn chân trần xuống đất lạnh cóng. Lão làm thế, một cử chỉ đầy kiên quyết và dứt khoát là theo kinh nghiệm sống của lão, nhằm để khắc phục cái sự dùng dàng phân vân trong một công việc trọng đại, nó quá trọng đại - có thể nói như thế - mà sáng nay lão phải làm, dứt khoát lão phải làm. Tì một bàn tay xuống mép phản, lão rọi cặp mắt nhìn vào bóng tối trong nhà. Lão trông thấy có một tấm lưng trẻ con nằm vắt trên miệng cái cối xay thóc kê ở gần cửa ăn thông giữa nhà ngoài và buồng trong của mụ Huệ. Lại thằng Bút rồi! Lão nghĩ. Ðây là thằng con trai út củ lão, mới lên sáu tuổi. Cái thằng “đầu bò” ấy đêm nào cũng ngủ chung với bố trên tấm phản nhà ngoài nhưng nửa đêm lại có thói quen hay rúc vào buồng ngủ với mẹ. Thằng bé thường bước chập chững vừa đi vừa ngủ, trên dọc đường nó vấp phải con chó đang nằm ngủ thì ngã nhào xuống ôm lấy con chó mà ngủ tiếp luôn cho đến tận sáng. Cuối cùng thì chẳng có lần nào nó đi tới được với mẹ mà sáng ngày ra chẳng hôm nào thấy nó ngủ ở trên giường, trên phản. Hôm thì ôm lấy cái cối xay thóc, hôm nó ôm lấy cái chổi mà ngủ. Như hai tên tuần đinh mẫn cán ở ngoài sân hai con chó vẫn ngậm miệng đi đi lại lại. Một trời sao dày như mắt sàng sáng long lanh và ướt át. Sương khuya rơi lộp bộp nặng trĩu từ trên những tàu lá xuống mặt đất chung quanh nhà vốn đã ướt đẫm sương. Lão Khúng như một cái thân cây khô đầy mấu mắt và vặn vẹo đứng im thít giữa mảnh sân một nên vôi trắng toát đang hướng mặt về phía biển, lão cùng ngôi nhà đều đang hướng mặt về phía biển, về hướng cái làng Khơi chôn rau cắt rốn của lão, của tổ tiên lão ở dưới ấy. Về hướng ấy chân trời như thấp hẳn xuống và nhoè nhoẹt trong sương luôn luôn như dội tới hai bên lỗ tai đầy thính nhậy như lỗ tai loài vật của lão những tiếng rì rào, rì rầm của sóng biển của đất đai quê nhà và mồ mả cha ông, cũng chả biết đó là những âm thanh có thực, lão nghe thấy thực hoặc chỉ là do lão đã từng nghe thấy từ đời tám hoánh nào, từ khi còn nằm trong bụng mẹ.

Lão cúi khom lưng bước nhanh vào trong nhà bếp. Hai bàn tay lão sờ soạn trong góc tối. Mùi cám lợn chen lẫn mùi phân dê vừa chua lòm vừa nồng nàn xộc vào mũi lão nhưng những thứ mùi ấy đã trở nên quá quen thuộc đến mức lão chẳng ngửi thấy gì cả. Lão lôi được từ trên cái giàn tre gác bếp xuống một vòng dây chão mới và một vòng dây đã cũ. Gian bếp tối như hũ nút lão chỉ có thể phân biệt, được đấy là hai vòng dây chão mới và cũ bằng cảm giác trên những ngón tay. Trong ngày phiên chợ sắp tới lão chẳng hề có ý muốn làm đỏm làm dáng cho con bò nhà lão sắp đem bán một tý nào nhưng bằng những ngón tay lão cảm thấy cuộn dây cũ đã quá cũ, nó đã mòn vẹt, thậm chí lão có thể ngửi thấy được cả mùi mồ hôi của con vật rịn ra từ những lô chân lông ở trên hông nó trong những buổi cày ngày này sang ngày khác đã thấm vào trong cái vòng dây chão. Con khoang đen đã già yếu quá, từ lâu lão Khúng đã biết vậy. Lão biết vậy từ đầu năm ngoái. Thậm chí các bà con trong xóm người ta không nói nhưng đã biết như vậy trước cả vợ chồng lão Khúng, người ta nhận ra nó đã già lão từ năm ngoài. Con bò đã hom hem như một bà lão vậy mà cáo sợi dây chão lại cũ, không khéo người ta nhìn vào lại càng thấy nó già yếu hơn? Lão Khúng đứng trong bóng tối và đang tính toán mọi đường hơn lẽ thiệt về cái uy thế của con bò nhà lão lúc ra đứng ở giữa chợ.

Trong bóng đêm tối thui lão Khúng đứng nhìn sợi dây chão đã từng cột cổ bao nhiêu con bò, đã từng gắn bó với đất cát nhà lão, đã từng đi qua đời lão, phải rồi ngày xửa ngày xưa đấy là sợi dây chão vẫn còn mới nguyên, những sợi lạt giang mới cứ trắng tinh như lụa bện chặt vào nhau mà lão đã mang từ chợ Cày về cùng với mồ ma con vá lưng, lão đã dùng sợi dây này dòng con vá lưng tận trong chợ Cày về, và cũng trong cái bận đi tậu bò ấy, lão đã giáng cho cái thằng cha lái bò trong chợ Cày một bài học đáng đời, lão đã làm cho hắn được một mẻ ngượng ngay giữa chợ. Là bởi vì cái thằng cha bủn xỉn quá thể đã bán con bò cho lão, cầm trên tay cả một đống giấy tiền lớn cuộn tròn to bằng cả cái khăn xếp vậy mà còn định cởi ra khỏi cổ con vật cái dây chão. Vậy thì để cho lão phải cởi dải rút ra mà dắt con bò về à? Quả thực thì sợi dây trông còn mới quá, còn mới hơn rất nhiều cái cuộn dây mới lão Khúng đang cầm trên tay bây giờ.

Nghĩ thế rồi lão Khúng quay trở vào cất cuộn dây mới lên gác bếp. Lão xách cuộn dây cũ ra. Chậc, dù chỉ là cái vặt nhưng cũng phải xuất tiền ra mua chứ chả ngửa tay xin không được của ai bao giờ, lão nghĩ vậy trong khi bước qua một lối đi rải vỏ ngao từ nhà bếp ra chuồng bò. Ði qua cái chum vỡ miệng chứa nước múc dưới giếng lên, lão cầm cái gáo dừa múc nước trong chum tu một ngụm, súc miệng sùng sục. Con khoang đen đã trông thấy bóng lão Khúng ngay từ lúc lão vừa thức dậy đi qua sân vòng ra căn nhà bếp đứng đái ồ ồ rất lâu ở cái thùng đựng tro đặt sau chuồng lợn. Mặc cho trong đêm tối, con bò cũng rất dễ nhận ra hình của lão Khúng. Hơn chục năm nay, con vật đã quá quen với một cái hình dáng con người, đứng trên hai chân y như một cái cây dại tự nhiên từ trong đất mọc lên, con vật chỉ khụt khịt lỗ mũi vài cái đã có thể đánh hơi thấy từ xa mùi mồ hôi muối thân thuộc và lập tức đánh thức dậy trong trí lử u tối của nó một ý chí thuần phục đầy khủng khinh. Như tuân theo một thứ quán tính, trông thấy lão Khúng vừa đưa ống tay áo chùi nước hai bên mép vừ bậm bạch đi tới trước cửa giàn, con bò đã toan bấm móng xuống đất đứng dậy nhưng lại như một đứa trẻ quen làm nũng nó biết rằng cần phải tỏ ra khủng khỉnh đôi chút, lão Khúng cũng thừa biết vậy, lão đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ lên cái cổ vươn dài ra ngoài then cửa nhưng khi con bò ngoan ngoãn đứng dậy, bàn tay lão trở nên run run khi buộc sợi dây chão vào cổ con vật.

Lão Khúng biết rằng cái nốt buộc lần này sẽ không bao giơ cởi ra nữa, lão đang cột cái chết vào cổ con vật. Con bò già nua làm sao thấy được một giọt nước mắt của lão Khúng vừa lăn vào lớp cỏ ống nhầu nát dưới bàn chân lão trong lúc lão oằn người giang hai cánh tay thúc cái then cửa giàn về một bên để mở cửa giàn bò cho con bò đi ra. Với chiếc dây chão cũ rích nằm vắt hai vòng trên cặp sừng rồi bỏ thõng xuống một bên bả vai đã sần sùi như da cóc vì suốt đời mang ách, con Khoang đen già nua lững thững đi ra khỏi cửa giàn, bốn móng chân nó giậm lộp bộp trên nền đất bột của mùa hanh khô vương đầy rơm rạ cùng những cọng cỏ tươi đã lấm láp. Ra khỏi cửa giàn mới dăm bước, con vật liền đứng lại. Nó khụt khịt ỗ mũi đánh hơi mùi đất ẩm sương đêm lẫn mùi ngai ngái hăng hắc xông lên từ một cái quang cỏ còn nguyên vẹn nén chặt trong bốn sợi dây thép, toàn cỏ ống đã rửa sạch mà con Nghiên, đứa con gái áp út của lão Khúng vừa đi cắt tận trong chân núi, lúc nhập nhoạng tối. Con vật thè cái lưỡi ram ráp bứt một ngọn cỏ trong chiếc quang nhai trệu trạo giữa hai hàm răng trắng nhởn, liên tiếp giậm bốn móng xuống đất tỏ ý ngạc nhiên chứa đầy bất mãn đối với lão Khúng vì nó cảm thấy đêm vẫn còn sâu sao mà lão Khúng đã lôi nó dậy đi cày sớm quá. Nhưng rồi như một thói quen mỗi buổi sáng ra ruộng, con khoang đen già nua ngước mõm lên trời kêu lên một tiếng “ngọ” khàn khàn đầy não nề làm rung chuyển màn đêm.

Cũng theo thói quen mỗi lúc ra ruộng, lão Khúng đánh con bò ra khỏi giàn liền chạy đi nhặt một chiếc rỗ thưa bật vành dính đầy tro lẫn phân bò khô đem đặt giữa hai chân sau của con vật. Ngay từ khi con khoang đen đang còn là một con me mới ra đời 14 năm trước, nhìn tướng mạo lão Khúng đã lấy làm bằng lòng khi trông thấy cái xoáy chỗ mút mông lão biết suốt đời con vật sẽ ỉa trước khi ra đồng, lão nuôi nó sẽ không bao giờ mất phân, hơn nữa, cái cuống đuôi không tròn vo mà bèn bẹt như đầu con cá chai: Con vật sẽ ban thưởng cho lão sức lao động của nó, những hòn phân ra hòn phân cứ chắc nịch chứ không bao giờ ỉa té re. Lão đứng trước cửa giàn lơ đễnh nhìn những ngôi sao trên trời chờ con bò đại tiện và lấy làm tiếc từ nay nhà lão không còn nguồn phân ngồn ngộn của con khoang đen để hằng ngày hót đổ xuống cái hố ủ bên cạnh giàn bò nữa. Hai cánh mũi hít hít cái mùi phân vừa trút ra khỏi cơ thể con vật còn nóng ấm và đầy nồng nàn đang tan vào không khí về sáng hơi giá buốt, lão cầm đầu dây chão dắt con bò ra chỗ gốc cây vối ngoài đầu ngõ, ở đấy một chiếc xe bò bánh lốp ô tô đậu nép bên hồi nhà bếp chỗ đầu hồi hơi nhô ra, nơi đặt chiếc cối giã gạo đạp bằng chân, hai bánh lốp ôtô của chiếc xe bò được quấn một sợi dây xích cột vào bên chân cối giã gạo. Lão Khúng nhìn qua một đống củi lẫn những bó chè xanh chất cao lù lù trên thùng xe, trông thấy một mái đầu bịt khăn quàng đen đang ẩn hiện ở bên kia chiếc xe, lão hơi giật mình biết là mụ Huệ đã thức dậy, vợ lão đã thức dậy cùng lúc với lão trong cái giờ phút trọng đại vĩnh biệt con bò. Mụ Huệ không hề lên tiếng cứ như người ngậm tăm, lão cũng vậy. Lão đứng hơi né ra một bên khi người đàn bà đi tới gơ tay cầm lấy một bên chiếc sừng nhẵn bóng, dắt con vật sang bên kia thành xe.
Lão Khúng đi quanh một vòng thít lại sợi dây mây chằng những bó củi rồi ra chỗ gốc vối ngồi xổm xuống, kẹp chiếc điếu cày giữa hai đầu gối, những ngón tay tự nhiên tê cứng run rẩy mãi mới châm được mồi thuốc lào vào cái nõ điếu bằng gỗ thị. Lão ngó nhìn chung quanh một lát mới bật cái bật lửa, thu thu ngọn ửa trong tà áo để khỏi rọi ánh sáng vào nhà khiến lũ con có thể tỉnh giấc vào lúc này. Ánh sáng từ chiếc bật lửa trên tay lão rọi một khoảng trăng trắng trong lòng chiếc chậu sành da lươn. Trước mặt lão, mụ Huệ ngồi xổm còn con bò đang đứng sung sướng thè lưỡi liếm thứ cháo nếp đặc sánh vô cùng thơm ngon mà mụ Huệ đã nấu sẵn từ đầu hôm. Nó có cái gì giống như bữa tiệc thết người trước khi bước lên đoạn đầu đài. Con bò già nua ăn chậm chạp, chiếc cổ cúi xuống gần như không động đậy, chỉ có chiếc yếm đã nhẽo ra hơi run rung, thỉnh thoảng con vật lại đưa chiếc lưỡi ram ráp liếm ngược lên theo thành chậu rồi âu yếm liếm trên hai bàn tay đã dăn deo vì lam lũ của mụ Huệ đặt thõng trong lòng chậu cháo. Chờ cho con bò ăn xong, mụ Huệ đưa bàn tay vẫn còn dính những hạt cháo nếp vuốt ve nhiều lần lên cổ con vật, đoạn dắt nó đến bên càng xe. Lão Khúng vội vã chạy tới vứt chiếc điếu cày lên đống chè xanh trên nóc xe đoạn cúi gò lưng nâng bổng cả hai chiếc càng xe lên khỏi mặt đất, đặt chiếc ách gỗ mặt trong đã mòn lõm vào cổ con vật. Hai vợ chồng lão Khúng đứng nhìn con bò rồi nhìn nhau một lúc trong đêm vắng. Cả hai vẫn lặng im. Lão Khúng biết không thể dùng dằng được nữa, không phải dùng đằng đối với mụ Huệ mà chính lão sợ con Nghiên và thằng Bút ngay lúc này trong nhà thấy động chúng thức dậy. Ai chứ thằng Bút, thằng “đầu bò” sẽ nằm lăn quay ra trước xe, thậm chí ôm chặt lấy ha chân trước của con bò không cho bố đem đi đâu cả. Nhất là con Nghiên, năm nay mới 9 tuổi đầu nhưng từ hi biết cầm cái lềm, là đứa con gái bé nhất của lão đã biết ngày ngày chăm chỉ đi cắt cỏ, mỗi ngày một gánh đầy, để cho con khoang đen ăn no để đi cày, có hôm nó đi cắt tận trong khe núi giáp Diễn Châu, gánh gánh cỏ đi lạc mãi trong những dãy núi, vừa sợ, vừa đói chín mười giờ đêm mới tìm được đường về làng. Lão hấp tấp trèo lên ngồi chênh vênh trên thành xe, kêu lên những tiếng “hầy, hầy” đầy gắt gỏng. Nhưng đâu có phải chờ lão giục, con bò đã vươn dài cổ kéo chiếc bánh lốp đã mòn vẹt lọc cọc lăn qua trước mặt Huệ đang đứng câm lặng bên gốc vối. Ra khỏi nhà một đoạn, lão nhảy xuống. Con đường dốc sục lên những đất bột tự nó kéo chiếc xe lăn tuồn tuột xuống dốc.

Lão Khúng bước cao bước thấp, hai tay cố níu giữ chiếc xe đi chậm lại, lão quay ngoái cổ, bằng con mắt con vật, nhìn một lần cuối cùng ngôi nhà với cái dốc tường hình tam giác trắng nhờ nhờ in bật trên nền trời sao đêm về sáng đang nhấp nháy liên hồi, bỗng giật mình chợt nhìn thấy bên gốc vối không phải chỉ có một mình vợ lão mà còn thêm một cái bóng bé bỏng, trời ơi, con Nghiên! Con Nghiên! Sao nó biết mà dậy? Lão Khúng thấy vướng vức trong lòng vô cùng. Suốt tối qua, chiều qua và cả ngày hôm nay, cả hai vợ chồng lão đã đồng lòng giấu biệt không cho lũ con biết sớm nay sẽ đem bán con bò của nhà. Vậy mà đứa con gái đã biết mà thức dậy, đứa con gái hai bàn tay lúc não cũng sây sát ứa máu vì công việc cắt cỏ cho con bò ăn để đi cày. Thực ra con bé thức dậy tự lâu lắm, trước lão Khúng và dường như là suốt đêm đêm nó không ngủ. Con bé lên chín sứt răng, bằng mối mẫn cảm đặc biệt của dòng máu gia đình nông dân, nó biết tính toán rồi ra trước sau không còn cách gì khác, nhà nó cũng phải bán con khoang đen đi để lấy tiền cho bố đi vào Ðắc Lắc một chuyến nữa, để làm nhà làm cửa cho vợ chồng anh Lạc nó đang đi “kinh tế mới” và đang gặp khó khăn ở trong đó, trong đó là câu? Ðắc Lắc, Ðắc Lắc, cái xứ đất rất xa lạ ngoài sức tưởng của nó, ngoài tầm tay với đầy tình thân yên nhưng ngắn ngủi của nó đối với người anh mà cứ mối lần có ai đang nói chuyện nhắc đến hai tiếng Ðắc Lắc là con bé dỏng tai lên nghe hóng, không khỏi mủi lòn bùi ngùi sực nhớ ngay đến vợ chồng anh Lạc, người hiền như đất, tính tình như con gái mà nó thân nhất nhà, thương nhất nhà.

Hồi tháng một năm ngoái lão Khúng đã đi thăm con một chuyến trong Ðắc Lắc, về cái công chuyện này cũng có đôi lúc lão Khúng nghĩ mà lấy làm buồn rầu. Dù sao đời lão đã phải bỏ làng xóm, bỏ mồ mả tổ tiên ở dưới biển để lên tận đây, cái miền ngược ma thiêng nước độc này để khai khẩn đất cát kiếm miếng sống, lão vật lộn với miếng đất rừng này đến giờ đã gọi được là tạm mát mặt, hòn đất đã bớt đi rất nhiều mầm cỏ dại, hòn đất đã gần hoá thành hòn đất thuộc, lão đã tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi cho mảnh đất này thì đời con lão lại phải bỏ đây để đi đến những miền khác, những miền rừng khác xa xôi hơn, mịt mùng hơn. Chả lẽ đời của lão, cái số phận của lão, của vợ chồng, con cái lão là phải như vậy, cứ phải như vậy? Ôi, lão Khúng nghĩ, giá không phải chạy theo đưa con để bù trì nâng giấc cuộc sống ban đầu cho nó ở cái nơi đất khách quê người chắc chắn hôm nay lão không phải rong con khoan đen xuống chợ Giát từ nửa đêm thế này? Mà cái con khoang đen nó đã già gì, vẫn

Biết rằng nó đã 8 răng, đã đoạn từ lâu, nhưng của bền tại người, ông Bời bí thư huyện uỷ nói đúng, trong các xã có con bò nào béo gầy, bảo già thì hãy cứ giắt lên vùng trên giao cho ông Khúng nuôi hộ. Chỉ nửa năm chúng sẽ trở thành trai tơ, gái tơ, lại kéo cầy được! Một cái bóng mảnh nhỏ trong đêm như chiếc lá cỏ vụt bay ra khỏi gốc cây vối, vật tượng trưng cho cái ngõ ra vào của nhà lão. - Họ, họ... Miệng kêu khẽ bằng cái giọng âm thầm của một người quen ăn to nói lớn, hai tay giữ chặt lấy càng chiếc xe không cho hai bánh lốp nhúc nhích.

Lão Khúng đứng làm cái phanh xe hồi hộp đợi đứa con gái chạy xuống và trong bóng tối lão trong thấy chạy phóng lên phía trước đứa con gái là hai con chó nổi tiếng của gia đình lão: Con mực và von vàng. Chẳng hiểu sao hai con chó cũng trở nên đầy quyến luyến đối với con bò, chúng chạy quẩn quanh chân con bò, hai con vật giữ nhà đưa mũi hít hít trên những chiếc óng sừng của con vật kéo cày, trong lúc con Nghiên nước mắt giàn giụa sụp xuống ngồi xổm dưới tấm yếm thõng thẽo, rồi con bé xoã cả mái tóc ngắn đỏ quạch chưa kịp cặp lại bằng chiếc cặp ba lá từ khi nhảy choàng ra khỏi giường, để cho mái tóc trùm lên đầu, lên cổ con vật, hai bàn tay bé nhỏ không ngừng vuốt ve hết mũi miệng, đến đầu cổ con vật. Con bò cũng tỏ vẻ buồn bã, hay là đên lúc này bằng bản năng loài vật, nó đã cảm thấy được nó đang đi chuyến đi cuối cùng của đời nó, giữa đêm khuya? Con Nghiên chừng như không còn chịu đựng nổi nếu đứng mãi bên con vật mà suốt đời nó chăm sóc, con bé liền chạy lại gục đầu vào ngực bố bởi nó biết chính lúc này bố nó cũng đang đau khổ vì phải đem bán con bò.

Lão Khúng đưa một bàn tay lên vuốt vuốt trên phiến lưng gầy guộc của đứa con gái chăm làm nhất nhà. Lần đầu tiên lão nhận thấy từ mái tóc và hơi thở của đứa con gái nhỏ phả

Ra mùi của các loài cỏ rất tươi non của đồng nội, vừa đắng vừa ngọt, phải lát lâu sau khi đứa con đã rời lão và khụt khịt như đang khóc vừa chạy vụt trở về với mẹ bên gốc cây vối, lão mới âm thầm nhận ra trên cơ thể của nó cái mùi cỏ ống vừa cắt, cả mùi đất rừng hoang dã rất xa xưa đã ngủ trong ký ức của lão nhiều năm về trước, khi lão còn là một chàng trai cùng mụ Huệ vừa từ dưới làng Khơi lần mò đặt chân lên đây. Thời bấy giờ con Nghiên hãy còn chưa đẻ, hơn một nửa số con cái của lão hãy còn chưa đẻ, con khoang đen cũng đang còn nằm trong bụng mẹ nó là con vá lưng mà lão sắp sửa đi tậu từ trong chợ Cày. Những ngày tháng ấy như thuộc vào thời kỳ mới có loài người, lúc bấy giờ trong cái “ổ gấu chó” của gia đình lão, cái gia đình loài người độc nhất giữa lòng rừng này mới có thằng Hùng, thằng Dũng và thằng Lạc mới sinh được hai tháng đang còn đỏ hỏn nằm trong lòng mụ Huệ.

Y như thế ngày ấy mặt đất đâu đâu cũng là rừng rú, người thì ít lác đác, quá ít, chỉ có một gia đình lão do táo tợn mới dám chạy lên lập nghiệp, ấy thế vậy mà cái sợ lại không nhiều như bây giờ.

Con người ta sợ nhau nhiều hơn là sợ beo trăn, cọp hổ, mới nói thê, nhất là từ ngày có cái công trường của nhà nước. Ngày trước cái gì bỏ đâu còn đó, thậm chí một cái ruột áo bông mới mua để mặc rét, suốt mùa hè vứt ngoài khe đá mà có ma nào lấy? Ai lấy? Lão sống như người rừng, đánh mất luôn tính cách một người ở đồng bằng, một anh nông dân bon chen ở làng. Vợ lão vốn một người thành phố lại càng thay đổi nhiều. Cả hai vợ chồng trở nên lầm lì, tính nết cũng âm âm u u như tính nết của rừng. Ngày đó, lắm lúc lão Khúng nhìn những đứa con chơi với nhau bên hang đá, đầu ngọn suối, lão ứa nước mắt, nói dại, lão cứ nghĩ không biết chúng nó là con lão hay là con của loài cầy cáo, beo trăn, mỗi lần nghĩ dại thế, lão lại lăn ra cười một mình, cười lăn cười lộn như một kẻ điên, trước cái sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát ra nổi của hoang vu. Bây giờ con người đã đông hơn con vật, sắt thép đã đông hơn cây cối vậy mà lão lúc nào cũng nơm nớp. Vụ đông năm ngoái, cánh công


[ t
ruYen cua tui . net ] http://ngantruyen.com/
nhân cơ giới hái trộm mất của nhà lão cả gần sào cà chua vừa độ chín rộ. Còn năm nay, mới tháng trước, con Hương, đứa con gái nổi tiếng xinh đẹp của lão đi học dưới trường cấp III của huyện được về nhà chiều thứ bảy. Mới nhập nhoạng tối chứ đã khuya khoắt gì, lão ngồi xổm trước thềm đang lúi húi dở nồi khoai lang luộc, trông qua làn khói, lão phát run lên, vừa tức giận, trông thấy con gái mặt cắt không còn giọt máu, guốc, dép vứt đằng guốc dép, chạy bán sống bán chết từ dưới con dốc trước nhà lên, hốt hoảng như bị lợn rừng rượt...