Đạo Mộ Bút Ký 1

Chương 9: Mộ Cổ


Chiếc điện thoại có lẽ mới bị bỏ lại không lâu. Tôi nhặt lên nhìn, bên trên còn dính máu. Tôi thấy không ổn: “Xem ra ở đây không chỉ có mình nhóm chúng ta. Hình như có ai đó bị thương, chiếc điện thoại này chắc chắn không thể từ trên trời rơi xuống”.

Tôi mở danh bạ điện thoại, trông thấy bên trong có mấy số đều là số nước ngoài, ngoài ra không có thông tin gì khác. Chú Ba nói: “Bất kể thế nào chúng ta cũng không được đi tìm họ, phải mau chóng lên đường”. Tôi nhìn quanh không thấy có dấu vết gì, đành mở đường đi tiếp. Nhưng ở giữa nơi hoang vu hẻo lánh này bỗng bắt gặp một vật hiện đại như thế khiến tôi cứ thấy hơi khó hiểu, liền hỏi lão già xem ngoài đám chúng tôi ra thì gần đây còn có người khác vào rừng không.

Lão già cười khà khà: “Hai tuần trước có một đám khoảng mười mấy người, đến giờ vẫn chưa thấy ai ra. Nơi này hung hiểm lắm, các ông lớn, bây giờ chúng ta quay đầu vẫn còn kịp đấy”.

“Có mỗi con yêu quái thôi mà”, Khuê béo nói, “Cho ông biết nhé, anh chàng này của chúng tôi đến cả cương thi nghìn năm cũng phải dập đầu lạy, có hắn ở đây yêu ma quỷ quái gì cũng không thành vấn đề, đúng không?”, y hỏi tên Bình Kín Miệng. Bình Kín Miệng chẳng có chút phản ứng nào hết, cứ như thể coi y là không khí vậy. Khuê béo bị dội nước lạnh, ức lắm nhưng không làm gì được.

Chúng tôi lầm lũi đi đến rã chân, đến gần bốn giờ chiều thì cuối cùng cũng tới đích.

Chúng tôi trông thấy mười mấy cái lều quân dụng còn gần như nguyên vẹn. Loại lều này chất lượng cực kỳ tốt, tuy lúc này bị phủ đầy lá mục nhưng vẫn rất khô ráo, sạch sẽ. Trong lều có không ít vật dụng hằng ngày, chúng tôi lật bừa lên, phát hiện có mấy thứ trang bị lặt vặt, không có xác người nào hết. Có lẽ lão già không nói dối.

Chúng tôi thậm chí còn tìm thấy một cái máy phát điện và mấy thùng xăng, máy phát điện bọc trong vải dù, nhưng phần lớn linh kiện đều đã nát hết. Khuê béo thử nổ máy nhưng không thấy chạy, có điều xăng vẫn còn tốt. Tôi lục lọi một lúc thấy tất cả mọi thứ đều đã bị xé mất nhãn, đến cả nhãn mác trên lều và ba lô của họ cũng biến mất. Lạ nhỉ, xem ra những người này không muốn ai biết họ đến từ đâu.

Chúng tôi nhóm lửa ở quanh trại, ăn một bữa tối đơn giản. Lão già vừa ăn vừa cảnh giác nhìn quanh, sợ có yêu quái bất thình lình xông ra treo cổ lão. Mùi vị thứ đồ ăn đóng hộp này không ngon chút nào, tôi gần như chỉ nhấp vài ngụm nước.

Bình Kín Miệng vừa ăn vừa xem bản đồ, hắn chỉ vào chỗ vẽ mặt cáo kỳ dị trên bản đồ: “Chắc chắn bây giờ chúng ta đang ở đây”.

Cả đám chúng tôi xúm lại, hắn nói tiếp: “Chỗ này là nơi cúng tế, bên dưới chắc là tế đài. Vật tế bồi táng có khả năng ở ngay bên dưới”.

Chú Ba ngồi xổm dưới nền, bốc một nắm đất lên ngửi, lắc đầu rồi lại đi vài bước, bốc tiếp một nắm khác lên, nói: “Chôn sâu quá, phải đào mấy thuổng lên xem mới được”.

Chúng tôi nối ống xoáy gen lại với nhau, gắn thêm lưỡi thuổng. Chú Ba dùng chân đạp lên mặt đất in thành mấy dấu chân ý bảo đào xuống chỗ này. Khuê béo cố định đầu thuổng trước rồi dùng búa ngắn nện xuống. Chú Ba đặt một tay lên ống thép để cảm nhận tình hình bên dưới, sau khi đập mười ba nhát, chú Ba bỗng nói: “Có rồi!”.

Chúng tôi rút từng nấc thuổng ra, cuối cùng xúc lên một mớ đất. Khuê béo tháo lưỡi thuổng mang đến bên đống lửa cho chúng tôi xem. Chú Ba và tôi vừa nhìn đã biến sắc, cả tên Bình Kín Miệng cũng phải kêu lên một tiếng. Thì ra, đám đất nơi đầu thuổng giống như bị ngâm trong máu vậy, đang nhỏ những giọt chất lỏng đỏ lòm.

Chú Ba đem lên mũi ngửi, chau mày. Tôi và chú đều từng đọc những ghi chép về thây máu, nhưng tình huống cụ thể ra sao thì không có cách nào suy đoán chính xác được từ trong cuốn bút ký của ông nội tôi. Có điều nếu như đất bị dính máu thì ngôi mộ phía dưới ắt không tầm thường.

Tôi nhìn chú Ba, đợi xem chú quyết định thế nào. Chú nghĩ một lát rôi châm thuốc, nói: “Bất kể ra sao, cứ đào lên rồi hẵng tính”.

Ở hai bên, Phan Tử và Khuê béo đào không ngơi tay, Khuê béo xắn thêm mấy thuổng nữa rồi đưa lưỡi thuổng cho chú Ba. Mỗi lưỡi thuổng chú Ba đều ngửi kỹ, dùng cái xúc đất nối liền hai hố. Tôi quan sát mọi người bận rộn định vị, một lúc sau trên mặt đất hiện ra hình dáng bao quát toàn ngôi mộ.

Dò huyệt định vị là bài tập cơ bản của dân trộm mộ, thường thì bên trên như thế nào, ngôi mộ dưới đất cũng sẽ trông như vậy, rất ít khi có dân trộm mộ dò nhầm. Nhưng tôi trông hình dáng này liền thấy ngay không ổn, phần lớn mộ thời Chiến Quốc thường không có địa cung, vậy mà ngôi mộ này có rõ rành rành, đỉnh mộ còn xây bằng gạch nữa. Điều này không tầm thường chút nào.

Chú Ba lấy tay đo xác định vị trí cơ bản của quan tài, nói: “Mái gạch bên dưới chúng ta không thể đục bằng thuổng, chỉ có thể đánh dấu vị trí đại khái dựa vào kinh nghiệm. Địa cung này quá đỗi cổ quái, tôi không biết chỗ nào gạch mỏng nên đành áp dụng kinh nghiệm mộ thời Tống, thử vào theo lối tường sau xem sao. Nếu không được thì phải làm lại. Thế nên chân tay lẹ chút”.

Đám của chú Ba đã từng đi trộm mộ mười mấy năm rồi, tốc độ cực nhanh, ba cái thuổng lưỡi xoắn cùng lúc, chẳng mấy chốc đã đào xuống bảy, tám mét. Bởi vì đang ở chốn rừng sâu hoang vắng nên cũng không cần thiết phải dọn đất đi, chúng tôi cứ thế hất đất ra ngoài. Một lúc sau nghe tiếng Khuê béo nói: “Xong rồi nhé!”.

Khuê béo đã đào một cái vòm hang trộm rất rộng bên dưới, còn dọn dẹp được một đống gạch. Chúng tôi bật đèn mỏ lên soi xuống, Bình Kín Miệng trông thấy Khuê béo lấy tay gõ lên tường, vội ngăn y lại: “Đừng có đụng vào cái gì!”. Ánh mắt tên này cực kỳ sắc bén, Khuê béo bị dọa cho nhảy dựng lên.

Bình Kín Miệng giơ hai ngón tay ra đặt lên mặt tường, men theo kẽ gạch bắt đầu sờ soạng. Sờ một lúc lâu mới dừng lại, nói: “Bên trong này có một lớp tường chống trộm, lúc di chuyển tất cả gạch đều phải mang ra ngoài, không được cho vào trong, càng không được đập!”.

Phan Tử sờ tường nói: “Sao chả có cái kẽ nứt nào, cạy gạch ra kiểu gì đây?”.

Bình Kín Miệng mặc kệ, hắn mò đến một viên gạch, đột ngột phát lực kéo viên gạch từ trong tường ra hẳn bên ngoài. Loại gạch đất nung này rất chắc, nếu chỉ dựa vào hai ngón tay để rút ra thì không biết phải dùng bao nhiêu sức. Hai ngón tay này của hắn thật khỏe.

Hắn cẩn thận đặt viên gạch xuống đất rồi chỉ ra phía sau viên gạch. Chúng tôi trông thấy một bức tường sáp màu đỏ thẫm. Bình Kín Miệng nói: “Bức tường này toàn axit hữu cơ mạnh sinh ra trong quá trình luyện đan, nếu đập vỡ, chỗ axit đó sẽ phun hết lên người chúng ta trong nháy mắt, lúc ấy chúng ta sẽ bị thiêu sạch đến da cũng chẳng còn”.

Tôi nuốt nước miếng, chợt nhớ đến chuyện ông nội từng trông thấy một con quái vật không có da, lòng kinh hoàng ghê gớm. Chẳng lẽ đó không phải thây máu mà là cụ tổ bị dính axit khắp người? Thế thì ông tôi bắn mấy phát đạn ấy chẳng phải đều bắn lên cụ tổ?

Bình Kín Miệng bảo Khuê béo tiếp tục đào sâu thẳng xuống năm mét nữa, rồi hắn lôi trong túi mình ra một ống nhọn rỗng ruột dạng như kim tiêm và một ống nhựa, nối ống nhựa vào rồi đặt đầu còn lại vào trong hố. Phan Tử đánh lửa đốt đầu mũi nhọn, Bình Kín Miệng cẩn thận cắm đầu nhọn vào trong tường sáp. Ngay lập tức chỗ axit trên tường theo ống nhựa chảy vào trong hố.

Bức tường sáp màu đỏ thẫm nhanh chóng biến thành màu trắng, trông có vẻ như thứ bên trong đã chảy hết ra ngoài. Bình Kín Miệng gật đầu nói: “Được rồi!”. Chúng tôi lập tức bắt đầu dỡ gạch. Chẳng mấy chốc bức tường đã bị cạy ra một khoảng vừa đủ cho một người đi qua. Chú Ba ném một mồi lửa vào trong hang, mượn ánh lửa quan sát tình hình bên trong.

Chúng tôi phá vào từ mặt bắc ngôi mộ, ở đây dưới đất lót đá tảng nguyên khối khắc đầy văn tự cổ, những tấm đá nền này sắp xếp theo dạng như bát quái, càng ở bên ngoài càng lớn, càng vào trong càng nhỏ. Bốn phía xung quanh ngôi mộ có tám ngọn đèn Trường Minh, đương nhiên đều đã tắt từ lâu. Chính giữa mộ đặt một cái đỉnh vuông bốn chân, trên mặt đỉnh khắc mặt trời mặt trăng và các vì sao. Phía nam hầm mộ đối diện chỗ chúng tôi đặt một cỗ quan tài đá. Đằng sau quan tài là một hành lang tựa hồ thông xuống dưới, không biết dẫn tới nơi nào.

Chú Ba thò đầu vào ngửi rồi khoát tay ra hiệu cho chúng tôi lần lượt chui vào.

Chú Ba nhìn những ký tự khắc dưới đất, bảo Bình Kín Miệng: “Tiểu Ca, cậu nhìn những chữ này xem có đoán ra mộ này chôn cất ai không?”.

Bình Kín Miệng lắc đầu, không nói gì hết.

Chúng tôi thắp liền mấy mồi lửa ném vào đèn Trường Minh, cả hầm mộ liền sáng rực lên. Tôi nhớ lại con quái vật cuối cùng ông nội trông thấy trong bút ký và cả tiếng kêu oạp oạp quái dị ông nhắc đến nhiều lần mà sởn hết da gà. Lúc này Phan Tử đã đu lên trên cái đỉnh, định nhìn xem bên trong có gì không. Gã bỗng dưng reo lên: “Ông Ba, chỗ này có bảo bối!”.

Chúng tôi trèo cả lên, bên trong đỉnh có một cái xác khô không đầu, quần áo đã mục nát hết. Trên mình cái xác khô có vài món trang sức bằng ngọc. Phan Tử không khách sáo tháo hết xuống đeo lên tay mình.

“Có lẽ đây là cái thây còn lại sau khi hiến tế. Bọn họ chặt đầu tế trời rồi bỏ xác vào đây tế người. Chắc đây là tù binh chiến tranh, trên tay nô lệ không thể nào đeo trang sức.”

Phan Tử nhảy phốc vào trong đỉnh định nhìn xem bên dưới còn gì nữa không, Bình Kín Miệng muốn cản nhưng không kịp. Hắn ngoái nhìn cỗ quan tài đá, may mà không có phản ứng gì. Chú Ba mắng: “Thằng ranh này, cái đỉnh người ta dùng để bỏ vật tế, mày định làm vật tế phỏng?”.

Phan Tử cười khềnh khệch: “Ông Ba, tôi có phải Khuê béo đâu, đừng dọa tôi chứ”. Gã mò được một cái bình ngọc lớn ở trong, “Ông xem, đồ tốt vẫn còn nhiều, chúng ta lật cái đỉnh này xuống xem còn gì không nhé?”.

“Đừng làm càn, mau ra đi”, chú Ba nói. Chú trông thấy sắc mặt Bình Kín Miệng tái mét, mắt nhìn đăm đăm vào cổ quan tài đá, có khả năng đã xảy ra chuyện rồi.

Đúng lúc tôi nghe thấy tiếng kêu oạp oạp, ngoái đầu nhìn mà lạnh cả sống lưng. Tiếng kêu đó không bắt nguồn từ trong quan tài mà là từ Bình Kín Miệng.