Đạo Mộ Bút Ký 1

Chương 68: Hang Tường


Cửa hang này có lẽ là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, ký ức của tên Bình Kín Miệng bị ngắt quãng ở đây, những chuyện về sau trở thành một điều bí ẩn. Trong hang có thứ gì, hắn đã ra ngoài bằng cách nào, những người khác có bị mất trí nhớ giống như hắn không, giờ tất cả vẫn chỉ là những suy đoán không hề có chút căn cứ.

Tôi quan sát kỹ đường hầm này, nếu nhìn từ vẻ bề ngoài thì đây chỉ là một đường hầm nhân tạo có vị trí không mấy hợp lý (trừ địa đạo thời chiến, tôi chưa thấy có ai lại để cửa ở đây), những phần có thể nhìn thấy bên trong đều là loại gạch vàng giống như bên ngoài, cực kỳ bình thường về mặt kết cấu. Đường hầm kiểu này ở xưởng nung vôi Sơn Tây tôi đã thấy không biết bao nhiêu mà kể, tất cả đều là những cái giếng trời dùng để làm lò gạch. Nhưng nếu mở đường ở đây thì sẽ trở nên vô cùng nổi bật trong toàn thể bố cục ngôi mộ, không biết nó có tác dụng gì không nữa.

Trong trí nhớ của tôi, gần như tất cả mọi hầm mộ đều có kết cấu đối xứng, rất ít khi tự dựng thêm một đường hầm hoặc gian phòng ở một nơi nào đó, trừ phi bản thân chủ nhân ngôi mộ này có sở thích quái dị. Nếu không phải nguyên nhân này, vậy thì chỉ có hai khả năng:

Điều đầu tiên tôi nghĩ đến đó là: Bên trong rất có thể chứa đựng vật bồi táng bí mật nào đó. Điều này cũng không hề lạ, trong bút ký của ông nội tôi, chẳng thiếu gì người thiết kế ám thất trong mộ của mình. Nhưng những ám thất đó thông thường đều được ngụy trang cực tốt, vậy mà đường hầm này vừa không có cửa lại còn chẳng ngụy trang, đặt mỗi một tấm gương ở ngoài, có vẻ hơi tuềnh toàng rồi.

Khả năng thứ hai chính là liên quan đến phong thủy. Lý do tôi suy đoán như vậy là bởi gương là một đạo cụ rất quan trọng trong phong thủy, đặt ở đây có lẽ có mục đích riêng. Thường thì mở một cánh cửa trong phòng chính là biểu hiện của “thông” trong phong thủy, tức là dẫn thứ gì đó đến, hoặc thả nó ra.

Đây mới chỉ là tiểu phong thủy, đại phong thủy thời cổ khác biệt rất lớn, giống như giáo lý Đại thừa với Tiểu thừa trong Phật pháp vậy. Tiểu phong thủy chú trọng “sửa”, tức là thông qua một số phương pháp để sửa những cái không tốt thành tốt trong một phạm vi nhỏ. Kiến thức mảng này do khá thú vị nên tôi biết nhiều hơn đại phong thủy một chút.

Tôi đi theo góc đối diện tấm gương đến kiểm tra những nơi khác, hy vọng có thể thấy được gợi ý nào đó. Bố cục cả căn phòng giống hệt lời kể của tên Bình Kín Miệng, nhưng vì nó vẫn giữ nguyên hiện trạng hai mươi năm trước nên chỉ có bốn hướng vẫn còn dạ minh châu chiếu sáng, mô hình Thiên Cung chính giữa bị ẩn trong bóng tối, phải soi đèn pin lên quan sát cục bộ. Sau khi nhìn lướt mấy vòng, ánh mắt tôi bị những bức tranh bóng đổ trên tường hấp dẫn.

Nội dung bốn bức tranh này tôi đã miêu tả lúc trước, nhưng khi đó tôi mới chỉ nghe qua lời kể của tên Bình Kín Miệng nên còn rất mơ hồ. Giờ đích thân xem thì phát hiện mấy bức tranh thực ra miêu tả cực kỳ chân thực, chỉ cần chú ý một chút là có thể nhìn ra rất nhiều điều cụ thể.

Đầu tiên, tôi liếc ngay thấy dãy núi tuyết phủ trắng xóa trong tranh rất có thể là sườn bắc của dãy Trường Bạch Sơn ở Cát Lâm. Điều này không phải bởi tôi có trí nhớ kinh người, chỉ vì mấy ngọn núi chính của dãy Trường Bạch Sơn đều vô cùng đặc biệt, hễ ai đã từng đi qua thì chắc đều có thể nhận ra.

Thứ hai, tôi chú ý đến bức tranh kế tiếp, đoàn người đưa tang đều mặc trang phục thời Nguyên. Như thế cũng có nghĩa người ở trong quan tài khả năng là một vị quyền quý hiển hách nào đó của triều Nguyên, thời gian xây dựng Vân Đỉnh Thiên Cung rất có thể là giai đoạn hoán đổi triều đại giữa hai nhà Nguyên – Minh. Ở thời loạn lạc như vậy mà có khả năng xây dựng một lăng mộ khổng lồ nhường ấy, chủ nhân ngôi mộ này chắc chắn không đơn giản.

Thứ ba, cũng là điều khiến tôi kinh ngạc nhất. Toàn bộ đoàn người đưa tang đều là phụ nữ. Điều này thực sự vô cùng bất hợp lý, tôi không rõ nghi thức chôn cất của dân tộc Mông Cổ ra sao, nhưng nếu chỉ toàn phụ nữ đưa tang thì đúng là chưa từng nghe nói tới.

Những chi tiết vụn vặt kiểu này rất nhiều, không biết là manh mối mà người thợ điêu khắc cố tình để lại, hay đó vốn là phong cách hành sự thật của bản thân họ.

Xem đến đây, trong lòng tôi đã hiểu rõ. Dựa vào những manh mối này, chỉ cần đến đó tìm một người dân miền núi quen thuộc địa hình thì chắc chắn có thể tìm được vị trí cung điện. Có điều nó đã bị vùi lấp dưới lớp tuyết sâu hàng mấy trăm năm, đất băng vô cùng xốp, khi đào chỉ cần hơi bất cẩn một chút, một vụ lở tuyết nho nhỏ cũng đủ khiến bạn phải vĩnh viễn ngủ say dưới tuyết.

Nhưng những gợi ý này chắc không liên quan gì đến hang động ở góc tường, tôi kiểm tra thêm phía sau mấy tấm gương ở ba góc còn lại, không hề phát hiện có gì đặc biệt. Xem ra tất cả vấn đề cần đi vào đường hầm kia mới có cơ hội tìm ra đáp án. Tôi quay trở lại cửa hang, thấy tên Bình Kín Miệng vẫn còn đang đứng nhìn, ánh mắt hắn xuất hiện một chút do dự như đang cân nhắc vấn đề gì đó. Thấy tôi đến, hắn đột nhiên nói: “Có khi tôi vẫn phải đi vào một chuyến”.

“Không được”, tôi sửng sốt, “Cậu định đi nộp mạng à? Nếu cậu lại mất trí nhớ thêm hai mươi năm nữa thì mọi thứ sẽ chẳng còn ý nghĩa gì hết”.

Hắn nhàn nhạt nói: “Tôi khác với các cậu, đối với các cậu những chuyện ở đây chỉ là một sự trải nghiệm ly kỳ mà thôi, nhưng với tôi thì nó là cả một khúc mắc lớn. Nếu không tháo gỡ thì cho dù tôi nhớ lại tất cả, suốt đời này tôi cũng không yên ổn”.

Tôi nghe hắn nói mà lo sốt vó, liên mồm bảo hắn không được đâu. Thực ra không phải là tôi không hiểu hắn, nhưng hoàn cảnh hiện giờ của chúng tôi không cho phép xảy ra bất kỳ biến cố nào, phải mau chóng đi ra mới là chuyện cần ưu tiên hàng đầu. Nếu không cho dù biết hết bí mật trên toàn thế giới cũng chẳng giải quyết được gì. Khi hết oxy, mọi người sẽ chết ngạt hết, mà những bí mật ấy cũng theo đó mà trở thành vô giá trị.

Tôi nói cho hắn nghe lo ngại của mình, hắn cũng hơi mâu thuẫn, hỏi tôi: “Cậu nắm chắc bao nhiêu phần chúng ta sẽ thoát được?”.

Nghe hắn hỏi thế tôi mới nhớ ra mình vẫn chưa quan sát cẩn thận bảo đỉnh nơi này, vội vàng ngẩng lên nhìn kỹ.

Trong tất cả những cuốn bút ký tôi từng đọc, đỉnh mộ thời Minh đều được mô tả vô cùng kiên cố, cứ phải gọi là kèo ngang cột dọc chằng chịt. Theo như suy nghĩ của tôi thì bảo đỉnh này có lẽ đã dùng kết cấu hình vòm để chống đỡ sức ép, ở giữa cao, hai bên thấp dần. Nhưng giờ nhìn kỹ thì hình như nó lại sử dụng kết cấu địa cung trên cạn mà làm thành một cái mái bằng. Giờ khoét lỗ ở bất kỳ chỗ nào cũng không khác lắm.

Bảo đỉnh cách chúng tôi khoảng hơn mười mét, ở đây không có thứ gì có thể lót chân, đành phải bắt đầu hành động từ mấy cây cột. Lấy chân gương đập lên cột tạo thành mấy cái lỗ rồi leo lên, đập vỡ lớp đất sét trên bề mặt bảo đỉnh rồi bắt đầu xử lý đám gạch xanh. Chúng tôi cũng không cần quá cẩn thận, chỉ cần tính đúng thời gian, phá hoại kết cấu chịu lực ép trên đó thì nó sẽ tự sập xuống một lỗ, đợi nước biển xối vào làm ngập căn phòng là chúng tôi có thể thoát ra dễ dàng.

Điểm mấu chốt nhất của kế hoạch này chính là nắm bắt đúng thời gian. Nếu không phải lúc thủy triều rút, một khi kết cấu bị phá hoại chưa biết chừng cả bảo đỉnh sẽ bị luồng nước xối vào đập vỡ, đè chết chúng tôi bên dưới.

Tôi nói cho Bình Kín Miệng những điều này, nhấn mạnh với hắn thực ra cơ hội thoát thân của chúng tôi rất lớn. Nhưng chỉ cần thoát ra là cả ngôi mộ cũng tiêu tùng luôn, có điều ngôi mộ sẽ không biến mất, những thứ bên trong vẫn còn đó, mấy ngày nữa hắn trang bị đầy đủ rồi quay lại cũng được, không việc gì phải vội vã nhất thời.

Hắn gật đầu, cuối cùng cũng bị tôi thuyết phục. Tên mập thực sự không chịu nổi nữa, nói: “Nếu đã như vậy thì còn chờ gì nữa, chúng ta hành động luôn bây giờ đi. Xử lý cây cột này trước để lát nữa khỏi luống cuống chân tay”.

Tôi nhìn đồng hồ, thấy còn cách lúc thủy triều rút sáu tiếng nữa, thời gian khá thoải mái, liền lắc đầu: “Vừa nãy chúng ta đã mất quá nhiều sức lực, lại chưa ăn uống gì, trạng thái cơ thể hiện giờ uể oải. Lúc này cần nghỉ ngơi tử tế, lát nữa sau khi ra ngoài không biết sẽ còn gặp những tình huống gì, chưa biết chừng thuyền ở trên đã đi mất. Nếu không có sức, ra ngoài sẽ chết đuối ngay, lỗ quá”.

Tên mập vốn là một kẻ rất tích cực, nghe tôi nói có lý nên hậm hực gãi đầu, nói: “Mẹ nó chứ, vẫn phải đợi à? Thôi được, tôi đi đánh một giấc, khi nào bắt đầu nhớ gọi tôi”.

Tôi cũng kiếm một chỗ dựa vào nghỉ ngơi, nhưng đầu óc thì không hề dừng lại. Tôi tính toán nếu nước biển bắt đầu xối vào sẽ phải đi kiểu gì. Bây giờ đường hầm dẫn đến tấm bia đá ở đáy ao đã đóng, tuy không kín mít nhưng chắc chắn lượng nước vào đó sẽ chậm hơn rất nhiều so với lượng từ bảo đỉnh tràn xuống, rất nhiều nước sẽ tràn vào hang động sau tấm gương kỳ quái kia trước, chỉ không biết cái hang thấp tẹt đó dẫn đến đâu. Nếu nó liên thông đến các gian phòng khác thì rất phiền toái, nơi này sẽ hình thành một dòng xoáy cuốn chúng tôi vào đó hết.

Nghĩ đến đây, tôi không khỏi liếc nhìn vào sâu trong hang, thầm tính toán xem có cách gì bịt kín cửa hang đó. Tôi nghĩ ngay đến chuyện nhét các mô hình vào, áng chừng chiều cao và chiều rộng của cửa hang xem phải nhét kiểu gì cho phù hợp.

Nhưng đúng lúc tôi tập trung chú ý thì trong lòng chợt dâng lên một cảm giác cực kỳ quái dị.

Bóng tối bên trong cửa hang có một luồng sức mạnh đang mạnh mẽ hấp dẫn ánh mắt tôi. Thứ sức mạnh này không những dữ dội mà còn có một sức cưỡng ép nhất định, tôi muốn quay đi nhưng phát hiện ra cổ mình không sao cử động nổi, đến cả tròng mắt cũng không có cách nào xoay chuyển.

Đồng thời, tôi lập tức cảm thấy bức bối, nỗi bức bối này rất khó hình dung, giống như một người đói đến cực điểm có được một túi thức ăn nhưng không tài nào mở túi ra được. Nỗi bức bối nhanh chóng làm sản sinh trong lòng tôi một xung động mạnh mẽ khiến tôi chỉ muốn vào trong cửa hang xem xét.

Tất cả những thứ này gần như chỉ xảy ra trong giây lát, không có một chút dấu hiệu. Khi hai người kia nhận ra điểm bất ổn thì đã muộn rồi, tôi đẩy phăng Bình Kín Miệng phía trước, xông vào trong hang. Vì tôi ở rất gần cửa hang nên chỉ vài bước chân đã tiến vào bóng tối, hắn muốn kéo lại cũng không kịp. Lúc ấy tôi hoàn toàn không hề nghĩ rốt cuộc mình đang làm gì, một lòng chỉ muốn chạy đến nơi sâu nhất trong hang để quan sát. Thậm chí tôi cũng không bật đèn pin cầm trên tay, cứ thế chạy như điên trong bóng tối, hoàn toàn không để ý dưới chân, cũng không quan tâm phía sau có ai đuổi theo không.

Mới chạy vài bước thì chợt có luồng gió mạnh phía sau lưng nổi lên, rồi đầu gối trái của tôi đau nhói, chân không sao bước nổi, ngã nhào xuống đất.

Cú ngã này nặng lắm, trán tôi bị đập xuống nền đau váng óc, mũi bị giập tóe máu. Nhưng ngay sau khi ngã thì nỗi bức bối trong lòng bỗng nhiên biến mất, mọi thứ đều trở lại bình thường.

Tôi thót tim, chỉ thấy có một cảm giác kỳ quái khó tả. Hang động này quá lợi hại, mới chỉ thấy một vùng tối đen thôi đã khiến người ta mất hết tâm trí. Lúc nãy tôi tập trung nhìn nên đã trúng chiêu của nó.

Ngoái đầu nhìn, tôi thấy Bình Kín Miệng và tên mập đã đuổi đến, có một chiếc đèn pin rơi bên cạnh, xem ra chính thứ này đã đánh trúng đầu gối tôi.

Hai người họ đi đến bên cạnh tôi, không nói một lời lập tức xốc tôi dậy kéo ra ngoài. Một bên gối của tôi bị thương không đứng dậy được, họ kéo mấy cái nhưng không sao kéo lên nổi, cộng thêm ánh sáng tối tăm trong hang khiến khung cảnh trở nên cực kỳ hỗn loạn.

Tên mập thấy dùng một tay không tiện lắm, y liền kẹp đèn pin dưới nách, dùng cả hai tay kéo tôi lên. Động tác của y vô cùng bạo lực, tôi bị y kéo mấy phát mà gần như muốn sốc.

Đúng lúc này, ánh đèn của y quét qua một chỗ. Mắt tôi lóe lên, hình như tôi trông thấy có một kẻ đang ngồi xổm trong bóng tối.

Tốc độ ánh sáng quá nhanh nên tôi không nhìn rõ, nhưng chắc chắn đó là một người. Tôi nghĩ ngay đến chú Ba, vội hô lên: “Đợi đã, phía trước có người!”.

Tên mập nghe thấy liền soi đèn lại, quét qua một bóng lưng. Nhưng lúc này người kia đã đứng lên, đang rảo bước chạy vào sâu trong hang.

Bấy giờ cả ba chúng tôi đều thấy rất rõ, cả đám ngẩn người nhưng đều chưa nhận ra đó là ai. Bình Kín Miệng phản ứng nhanh nhất, hắn kêu lên: “Mau đuổi theo!”, dứt lời hắn lao vút lên. Tên mập chửi thề một tiếng, đành đuổi theo sau hắn.

Tôi cố mấy lần mới miễn cưỡng đứng lên được, tập tễnh đi theo. Lúc này Bình Kín Miệng đã đuổi kịp kẻ kia, liền đó tên mập nhào tới. Hai người một trước một sau đè kẻ đó xuống đất, tên mập cầm đèn lên soi, á một tiếng, kêu: “Là A Ninh!”.

Tôi đi lên nhìn, sửng sốt vô cùng. Chỉ thấy cô ta mặt mũi lấm lem, đầu tóc rối bù, bộ đồ lặn trên người đã bị móc rách mấy chỗ, toàn thân bốc lên một mùi khó ngửi, mũi miệng có vết máu. Không biết cô ta đã gặp phải chuyện gì mà thành ra nông nổi này. Nhưng rồi tôi lập tức phát hiện ra thực sự thì ba người tụi tôi cũng chẳng khá khẩm hơn, nhất là tên mập, phải nói là thương tích khắp người, thảm không dám nhìn.

Tên mập thấy cô ả liền nổi đóa, chỉ vào mũi cô ta chửi. Y mới chửi mấy câu thì bị Bình Kín Miệng ngăn lại, nói: “Đợi một chút, cô ta hơi bất thường!”.